NGUYỄN THỊ THANH XUÂn
Tóm tắt:
Xuất hiện vào giữa thế kỷ XX, phê bình cổ mẫu không có tham vọng
đưa ra một mô hình lý thuyết chung mà luôn đề cao tinh thần trải nghiệm.
Trong bài viết này chúng tôi dùng quan niệm và phương pháp của
phê bình cổ mẫu của Carl Gustav Jung, Gaston Bachelard và Northrop Frye như
những căn cứ quan trọng để khám phá cổ mẫu Nướctrong tác phẩm văn
chương Việt Nam.
Dựa vào các tiêu chí trội bật, linh hoạt, lan tỏa cùng với tần số
xuất hiện, bài viết chọn khảo sát một số cổ mẫu Nước, xuyên qua đơn vị tác
phẩm, từ văn học dân gian đến văn học thành văn, không phân biệt thể loại, đặc
biệt tập trung vào tác phẩm của các giả: Hồ Xuân Hương, Trần Dần, Nguyễn Huy
Thiệp, nhằm chỉ ra những nét tương đồng và dị biệt trong tư duy văn hóa -
nghệ thuật giữa người Việt và nhân loại.
Cuối cùng bài viết ghi nhận đóng góp của Phê bình cổ mẫu: giúp
người nghiên cứu hiểu sâu hơn về tác phẩm; đoán định được sự vận động của văn
chương trên cái nhìn đa giác:tâm lý, văn hóa, nhân học; phát hiện ra những đặc
điểm nhân loại và dân tộc trong văn chương; góp phần nối liền văn học Việt Nam
và văn học thế giới; khuyến khích người cầm bút và công chúng Việt Nam nuôi lại
cái khát vọng “nối liền xưa và nay”, giúp họ bớt đi quán tính viết và đọc văn
chương theo kiểu áp sát đời sống chính trị, và tăng cường tính đa âm trong cách
viết và sức mạnh tưởng tượng trong sáng tạo, từ một nguồn lực văn hóa vững bền.
Có mặt sớm nhất trên vũ trụ này, Nước được xem là một thực thể
khởi nguyên làm nên nhiên giới và nhân giới. Bằng một cảm nhận trực quan, bất
kỳ một ai cũng có thể nhận ra sự hiện diện của Nước bên cạnh mình, bên trong
mình, như một nguồn sống thiết yếu của con người. Nhưng có lẽ càng dấn mình vào
xã hội hiện đại, lạc trong mê cung của các mối quan hệ Người, và ngập trong thế
giới đồ vật nhân tạo, con người đã lắm khi không còn nhận raNước như nó là.
May mắn thay, cái cảm nhận ấy, người xưa đã có. Nguyên sơ và trinh
trắng, tâm hồn của người nguyên thủy dễ dàng gặp gỡ Nước, nhận ra nó trong ánh
mắt ngỡ ngàng và xao xuyến và tràn đầy lòng biết ơn. Những cảm xúc về Nước của
Người đã được ghi khắc trong không gian nguyên thủy, qua hình vẽ, tượng đài và
ngôn từ. Nước thấm vào tư duy của Người, làm thành triết học. Nướcám ảnh
thế giới tâm linh của Người, làm thành văn hóa. Nước lay động mỹ cảm của Người,
làm thành văn chương nghệ thuật.Nước chi phối cách nói của Người làm thành ngôn
ngữ. Một gặp gỡ, tạo nên tương giao - một tương giao làm cả hai (Nước và Người)
trở nên phong phú.
1. Phê bình cổ mẫu
1.1. Giữa thế kỷ XX, bừng nở
một tinh thần khảo cổ học (archaeology) trong lãnh địa văn chương. Nhà khảo cổ
đào bới đất đai để tìm các dấu tích xưa, nhà phê bình đào bới văn bản để đi tìm
các vết hằn đầu tiên (archē typos) trong ký ức nhân loại. Là hạt mầm ấp ủ trong
đường ranh của hai mảnh vườn nhân chủng xã hội học và phân tâm học, cây phê
bình cổ mẫu hút mạnh các chất phù sa của văn học và sum suê tỏa bóng.
Trên mảnh vườn nhân chủng học so sánh, James George Frazer [1] đã phát hiện ra những huyền thoại
văn hóa, tiêu biểu là tác phẩm The
Golden Bough(Cành vàng). Trên mảnh vườn phân tâm học,
Carl Gustav Jung [2] đưa ra khái niệm vô thức cộng đồng
và mở ra con đường tiếp cận văn chương bằng cổ mẫu. Là người khai phá, C. G.
Jung chỉ kịp mở ra cánh cửa, và phác ra sự con đường sinh thành của các cổ mẫu
văn học. Ông mời gọi:
Nhưng có lẽ tôi có quyền hy vọng là các thính giả của tôi đã kịp
suy nghĩ, không phải về những điều tôi nói, mà chính là về sự vận dụng cụ thể
tất cả những điều đó vào tác phẩm thơ ca - nghệ thuật, như thế là đắp da đắp
thịt cho bộ khung xương tư tưởng trừu tượng của tôi [3].
Những người kế tục ông, như Maud Bodkin [4], Gaston Bachelard [5] và N. Frye [6], đã triển khai rộng rãi các khái
niệm vô thức cộng đồng, cổ mẫu để tiến hành những phân tích
cụ thể, nhằm khám phá tác phẩm văn chương. Từ đó, phê bình cổ mẫu chính thức
bước từ lãnh địa phân tâm học sang lãnh địa văn chương, với tư cách là một
thuật ngữ văn học thuần túy và có những căn cứ lý thuyết của riêng mình.
1.1.1. Khi nói về vô thức tập
thể, C. G. Jung đã dành nhiều hứng thú cho cổ mẫu [7]. Ông trình bày rất tinh tế cái thế đứng
cheo leo của cổ mẫu như là những cây trái mọc lên nơi giáp ranh của khu vườn lý
trí và khu rừng bản năng. Không chỉ dừng lại ở đấy, C. G. Jung còn bàn sâu vào
những biểu hiện của cổ mẫu trong văn học nghệ thuật. Trên phương diện này, có
thể nói, người đồ đệ số một của Sigmund Freud[8] đã đi rất xa so với thầy mình,
trong những gợi ý quan trọng cho người làm văn chương. Không khẳng định cách
tiếp cận cổ mẫu của mình là duy nhất đúng, là tối ưu, C. G. Jung xác định ngay
một thái độ chọn lựa trong nhiều chọn lựa, và mời gọi ta trên tinh thần thỏa
thuận một cách đọc, khá khiêm tốn mà xác tín: “nhìn từ bên ngoài”. Nhìn
từ bên ngoài, hẳn nhiên không thể bằng và do đó hoàn toàn không thể
thay thế cách nhìn từ bên trong, đó là logic tự nhiên, và C. G.
Jung nói rõ:
Có thể, nó [nghệ thuật] như chính tự nhiên, đơn giản là hiện
hữu nhưng không “biểu đạt” cái gì. Liệu có phải mọi “giá trị” chỉ đơn
giản là sự giải thích mà lí trí thèm khát ý nghĩa cứ muốn nhất
định buộc ràng cho sự vật? Có thể nói rằng nghệ thuật là cái đẹp, trong cái đẹp
có sự đầy đủ và tự mãn của mình. Nó [nghệ thuật] không cần bất kỳ “ý nghĩa” nào
cả (…). Khi tôi nhìn nghệ thuật từ bên trong, tôi đành phải tuân theo sự thật
của quy luật này. Ngược lại, khi chúng ta nói về quan hệ của tâm lý học đối với
tác phẩm nghệ thuật, chúng ta đã đứng bên ngoài nghệ thuật, và khi đó không còn
lại gì khác cho chúng ta ngoài việc buộc phải suy ngẫm, buộc phải giải thích,
để sự vật có giá trị - bởi khác đi, chúng ta nói chung không suy nghĩ được về
chúng (…). Từ đó, cái lúc trước là hiện tượng thuần túy sẽ trở thành hiện tượng
biểu đạt một điều gì trong chuỗi các hiện tượng kế cận nhau, trở thành sự vật
có vai trò nhất định, phục vụ cho những mục đích nhất định, tạo ra tác động
nghĩa [9].
Và như vậy, đọc cổ mẫu là cách nhìn tác phẩm văn chương từ bên
ngoài. Nhưng cách nhìn từ bên ngoài này không quy chiếu những chuẩn mực và tiêu
chí có trước vào tác phẩm, để mà giải thích nó. Đọc cổ mẫu là đi tìm, ghi nhận
các hiện tượng cùng những cuộc gặp gỡ thường rất bất ngờ của chúng trong tác
phẩm, xuyên qua thời gian và không gian, tra vấn và thử trả lời.
Tác phẩm văn chương đầu tiên của nhân loại mà cổ mẫu ngả bóng vào
là huyền thoại, hay nói khác đi, khi đến với khu rừng hào phóng rậm rịt huyền
thoại, người đọc cổ mẫu có nhiều hy vọng tìm thấy những cái cần tìm đã được bảo
chứng. Nói như S. Freud, “huyền thoại là những giấc mơ trần gian của nhân loại
ở tuổi thiếu niên” và giấc mơ thuở ấy của con người, theo G. Bachelard, “mạnh
hơn kinh nghiệm thực tiễn”. Bởi vì, “đối với người nguyên thủy, tư duy là sự
mơ mộng được tập trung, còn đối với người văn minh, mơ mộng là một tư duy được
thư giãn” [10]. Trong trạng thái mơ mộng tập trung
ấy, cái gọi là tư duy của người xưa rất khác với cái gọi là tư duy của người
hôm nay: một bên mơ mòng/một bên tỉnh thức; một bên dùng trực giác/một bên dùng
luận lý; một bên để vô thức ùa lên đến mức tối đa/một bên xưng tụng giá trị của
ý thức.
Nhưng cổ mẫu không chỉ náu mình trong huyền thoại. Người đọc cổ
mẫu sẽ không chỉ tìm về những trang viết của quá khứ, mà còn phải đắm mình trên
dòng sông chữ nghĩa hôm nay. Thế thì, có lối nào đi để gặp? Khi gặp rồi, làm
sao biết đó là cổ mẫu, đứa con lọt lòng của C. G. Jung? Hay là cổ mẫu như ta
quan niệm? C. G. Jung đã dự liệu trước những vấn nạn đó cho chúng ta vì ông là
người trải nghiệm. Ông nói:
Tác phẩm hiện ra trước chúng ta là hình tượng được
chế tác hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này. Hình tượng này có thể phân tích
được chừng nào chúng ta có khả năng nhận biết biểu tượng trong nó. Ngược lại,
khi ta không đủ sức khám phá ý nghĩa biểu tượng của nó, vậy là ta thừa nhận
rằng ít nhất đối với chúng, ý nghĩa của tác phẩm chỉ là ở cái nó nói ra một
cách rõ rệt, hay nói cách khác, nó đối với ta chỉ là cái nó có vẻ thế. Tôi nói
"có vẻ" - bởi vì có khả năng là sự hạn chế của ta chưa cho phép ta
nhìn được nó sâu hơn. Dù sao chăng nữa trong trường hợp đó ta cũng không có cái
cớ nào, điểm xuất phát nào để phân tích. Trong trường hợp đầu, ngược lại, ta có
thể lấy luận điểm của Gerhard Hauptmann làm nền tảng: làm nhà thơ - nghĩa là
cho phép đằng sau từ vang lên nguyên-từ (primordial word).
Dịch sang ngôn ngữ tâm lí học vấn đề hàng đầu của ta được đặt ra như sau: có
thể đưa hình tượng được khai triển trong tác phẩm nghệ thuật này đến nguyên-tượng (archetype)
nào của cái vô thức tập thể [11].
Theo phát biểu này, có thể nghĩ rằng đọc một tác phẩm theo tinh
thần cổ mẫu là đi từ hình tượng đến biểu tượng, trong biểu tượng, lần ra cổ
mẫu. Vậy thế nào là hình tượng, biểu tượng và cổ mẫu? Ranh giới ý nghĩa của ba
khái niệm trên chưa được C. G. Jung xác lập một cách cụ thể. Qua nhiều tài
liệu, có thể hiểu ba khái niệm ấy như sau: Hình tượng (image)
là hình ảnh dùng để chuyên chở ý nghĩa tinh thần của một vật, một sinh thể, một
ý niệm, theo mối quan hệ tương đồng (ẩn ngầm hay hiển lộ) giữa cái cụ thể
và cái trừu tượng, nhằm đưa đến một cảm nhận trực tiếp và khơi gợi trí tưởng
tượng của người tiếp nhận. Tác phẩm văn học là thế giới của vô số hình
tượng. Biểu tượng (symbol) cũng là hình tượng, nhưng là hình
tượng có khả năng biểu đạt một ý nghĩa có tính bền vững và phổ quát. Những ý
nghĩa ấy bắt nguồn từ văn hóa, tôn giáo, lịch sử của các cộng đồng. Cổ
mẫu (archetype) là những biểu tượng lớn có cội nguồn từ xa xưa, thoát
thai từ vô thức (chứ không phải ý thức) và là vô thức tập thể (chứ không phải
vô thức cá nhân). Nói khác đi, cổ mẫu là hình tượng có giá trị bền vững và phổ
quát, thoát thai từ vô thức tập thể. Do sự khác nhau về tính chất và cấp độ như
vậy nên trong tác phẩm văn học hình tượng bao giờ cũng chiếm số lượng lớn nhất,
sau đó là biểu tượng, và ít nhất là cổ mẫu [12]. Những tác phẩm không mang biểu tượng
sẽ không là đối tượng của đọc cổ mẫu, hẳn nhiên. Nhưng có những tác phẩm mang
biểu tượng hẳn hoi, cũng trượt ra ngoài tầm ngắm của chúng ta. Đó là những tác
phẩm mà các biểu tượng được xây dựng bằng ý thức (các loại văn học luận đề) và
bằng vô thức cá nhân (C. G. Jung gọi đó là triệu chứng, lĩnh vực dành cho phân
tâm học của S. Freud).
C.G. Jung đã chia sẻ với chúng ta những thách thức có thật ngay từ
việc nắm bắt biểu tượng: “Biểu tượng nổi lên như một lời trách cứ thường xuyên
đối với khả năng suy xét và cảm nhận của chúng ta”. Trước hết, theo ông, đọc cổ
mẫu sẽ không tính đến những biểu tượng văn học, như là một sản phẩm của ý thức,
bởi vì: Tác phẩm dự định có tính biểu tượng từ trước thì không đòi hỏi phải
tinh tế đến vậy. Bằng ngay thứ ngôn ngữ đa nghĩa được dùng, nó như bảo chúng
ta: “Tôi định nói nhiều hơn cái tôi nói thực; ý nghĩa của tôi cao hơn tôi”, mà
chỉ quan tâm đến những biểu tượng văn học như là kết tinh của vô thức.
Nhưng nếu những kết tinh từ vô thức cá nhân chỉ đưa ra tính triệu chứng,
thì những kết tinh từ vô thức cộng đồng mới làm nên tính biểu tượng cổ
mẫu. «Không bị dồn ép và không bị lãng quên», «Vô thức tập thể cũng không tồn
tại tự nó và cho nó, do nó chỉ là khả năng, cụ thể là khả năng mà ta được thừa
kế từ thời xa xưa dưới dạng một hình thức nhất định của những hình ảnh được ghi
nhớ trong cấu trúc của đầu não, nói theo giải phẫu học, (…) Chúng
bộc lộ chỉ trong chất liệu đã được tạo tác về mặt lí thuyết với tư cách là
những nguyên tắc điều khiển sự tạo lập chất liệu…” [13].
Thoát thai từ vô thức tập thể, nhưng cổ mẫu có tính tự trị của
mình, bởi vì nó sinh ra từ một khởi nguyên độc đáo và một năng lượng đặc thù.
Chúng có thể, vừa bổ sung trong dạng thức biểu tượng riêng của nó như một sự
chuyển dịch mang ý nghĩa, vừa tham gia vào một tình huống có sẵn với những xung
năng riêng và những tư tưởng riêng của chúng. Trên phương diện này, chúng có
vai trò như những mặc cảm. Chúng đi và đến tự do, bất ngờ, và thường thường,
chúng chống lại hay điều chỉnh những dự định có ý thức một cách khó lường
nhất [14]. Luận điểm này của C.G. Jung đáng chú
ý ở chỗ: trong khi khẳng định tính tự trị của cổ mẫu, ông muốn nói cổ mẫu không
bó mình vĩnh viễn trong vô thức cộng đồng, như là cái có sẵn, mà nó luôn vận
động, do những xung năng nội tại, nhằm phát triển trong xu hướng chống lại sự
kiểm soát của ý thức. Nói về tính chất này của cổ mẫu, để cho dễ hình dung,
C.G. Jung đã so sánh nó với một khái niệm mà ông nghĩ là khá quen thuộc với
nhiều người và nội hàm đã ổn định: mặc cảm (complex)
Bên cạnh hình tượng và biểu tượng, C.G. Jung còn dùng khái niệm
motif, một đơn vị nhỏ hơn hình tượng. Người đọc văn học theo phương thức cổ mẫu
thường dõi theo những motif lặp đi lặp lại trong tác phẩm để xác định cổ
mẫu. Có mặt trong huyền thoại và rồi tái sinh, hoá thân trong tác phẩm văn học
thành văn nhiều thế kỷ, cho đến nay, cổ mẫu đã có một hành trình rất dài cùng
nhân loại, vậy khuôn mặt vóc hình của nó có gì thay đổi? Theo C.G. Jung,
“ ...sự hiện diện này có thể thay đổi rõ rệt trong tiểu tiết, nhưng không
làm mất đi cái cơ chế nền tảng của nó” [15] và với những biểu hiện kép về
chức năng, cổ mẫu luôn tương tác với những cổ mẫu khác, dệt nên một tấm thảm
độc đáo về cuộc sống. Trong một hứng thú rõ rệt, C.G. Jung nói đến khoảnh khắc
xuất hiện tình huống huyền thoại và khoảnh khắc trải nghiệm huyền thoại, như là
một giao cắt tương ngộ, giữa người viết và người đọc. Có thể gọi đó là khoảnh
khắc hạnh phúc, bởi nó «bao giờ cũng được đánh dấu bởi cường độ cảm xúc đặc
biệt ». Cắt nghĩa trạng thái này, C.G. Jung cho rằng, trong cuộc sống
thường nhật, con người phải luôn nép mình để thích nghi, nên:
do đó không có gì ngạc nhiên nếu ta gặp một tình huống bất ngờ,
hoặc cảm thấy được giải phóng triệt để, thấy mình như mọc cánh bay, hoặc như có
một sức mạnh không sao cưỡng nổi túm lấy mình. Vào những lúc ấy ta không còn là
một thực thể cá nhân nữa, mà là chúng ta, là giống loài, giọng nói của toàn
nhân loại thức dậy trong ta. Vì vậy, chỉ một cá nhân riêng rẽ không thôi sẽ
không thể nào phát huy được hết các sức mạnh bản năng trong mình. Và cái chìa
khoá để khai mở sức mạnh đó sẽ không bao giờ tìm thấy được bằng một ý chí tự
giác quen thuộc không thôi [16].
Cổ mẫu lay động chúng ta, «bởi vì nó khơi dậy trong ta một giọng
nói to hơn giọng nói của chính ta» và :
Người nói bằng nguyên tượng dường như nói bằng hàng nghìn giọng,
nó mê đắm và khuất phục, nó nâng cái mình mô tả từ chỗ ngắn ngủi một lần và tạm
thời, lên chỗ tồn tại muôn đời, nhờ đó giải phóng trong ta tất cả những sức
mạnh cứu vớt vốn từ xưa đã giúp cho loài người tránh thoát được mọi tai họa và thậm
chí nén chịu được qua cái đêm dài nhất [17].
C.G. Jung diễn tả rõ cảm xúc của mình khi tiếp xúc với cổ mẫu:
Trải nghiệm về cổ mẫu là một trải nghiệm căng thẳng và xáo trộn.
Chúng ta dễ dàng khi nói một cách điềm tĩnh về cổ mẫu, nhưng đối diện thực sự
với chúng là một việc hoàn toàn khác hẳn. Sự khác biệt ấy giống hệt như khi
chúng ta nói về một con sư tử và khi chúng ta phải đứng ngay trước con sư tử
ấy. Đứng trước một con sư tử, trong ta hiện lên một trải nghiệm căng thẳng và
sợ hãi, và điều này có thể để lại dấu ấn lâu dài trong bản ngã chúng ta [18].
Nhưng ai là người có được những khoảnh khắc đặc biệt ấy ? Làm
sao nối kết tương giao với vô thức tập thể? Ghi nhận hiện tượng những «khuynh
hướng tinh thần hoặc phương châm cuộc sống» vốn phiến diện, trong cá nhân, dân
tộc và thời đại, C.G. Jung nói đến sự khác nhau giữa con người bình thường và
con người khác thường:
Con người bình thường có thể chịu phụ thuộc vào phương châm toàn
cầu mà không hề hấn gì; con người đi theo những con đường vòng, đường bên rìa
thì không thể đi cùng với người bình thường trên những con đường bằng phẳng,
rộng rãi, nhưng nhờ thế nó lại thành người khám phá được cái nằm bên vệ đường
đang chờ được đưa vào cuộc sống ý thức. Sự khó thích ứng của nghệ sĩ thực sự là
ưu thế của ông ta, nó giúp ông ta tránh được kiểu luận văn khô khan, biết đi
theo niềm đam mê tinh thần và có được những cái người khác bị mất mà tự mình
cũng không ngờ.
Không chỉ từ chối con đường thênh thang có sẵn, người sáng tác và
người tiếp nhận cổ mẫu cần phải lắng nghe tinh tế ngữ điệu của nó:
Những ai không quan tâm đến tính tác động đặc biệt của ngữ điệu cổ
mẫu sẽ chỉ thấy mình ở trong một đống những quan niệm mang tính huyền thoại, và
khi ấy người ta chắc chắn có thể thu thập theo kiểu để chứng minh rằng toàn bộ
cái ấy đều có một ý nghĩa, nhưng điều ấy hoàn toàn sai. Những thi hài thường
luôn luôn đồng nhất về mặt hoá học, nhưng những sinh thể thì không như vậy. Các
cổ mẫu chỉ bắt đầu sống lại khi người ta nỗ lực và kiên trì phát hiện tại sao
và làm thế nào chúng có một ý nghĩa đối với từng sinh thể như vậy [19].
1.1. 2. Nếu C.G.
Jung xoáy vào vô thức cộng đồng thì G. Bachelard tập trung vào bản chất và hoạt
động tưởng tượng trong văn học. G. Bachelard cho rằng, bản thân con người thuộc
về một chất liệu và những giấc mơ của họ mang tính chất của chất liệu ấy, trước
khi nó mang dáng vẻ của những cái mà họ chiêm ngưỡng được:
sự mơ mộng thường xuyên quay trở lại những chủ đề nguyên thủy,
thường xuyên hoạt động như một tâm hồn nguyên thủy bất chấp những bước tiến của
tư tưởng được rèn dũa, chống đối lại ngay cả việc dạy dỗ của những kinh nghiệm
khoa học [20].
Và vì vậy, hoạt động tưởng tượng của con người phát triển trên hai
trục chính: các hiện tượng mới lạ, bất ngờ và cái bản thể nguyên sơ vĩnh hằng:
“Một tưởng tượng sản sinh ra nguyên nhân hình thức và một tưởng tượng sản sinh
ra nguyên nhân vật liệu, ta gọi vắn tắt là tưởng tượng hình thức và tưởng
tượng vật liệu” và ông khẳng định: “Thực vậy, đối với chúng tôi, những khái
niệm gọi tắt này có lẽ là cần thiết để nghiên cứu hoàn chỉnh về mặt triết học
vấn đề sáng tác thơ ca”, “Những hình tượng vật liệu ấy ta mơ thấy chúng, mơ có
nội dung, mơ sâu kín trong lòng mà bỏ qua những hình thức, những hình thức có
thể tàn lụi đi, những hình tượng hư ảo, cái tương lai của bề mặt. Những hình
tượng vật liệu ấy, chúng có một sức nặng, chúng là một trái tim”[21].
Tưởng tượng hình thức và tưởng tượng vật liệu: hai từ khóa của phê bình G.
Bachelard có thể gợi ý chúng ta rất nhiều. Như trên đã nói, C. G. Jung cho rằng
đọc từ bên trong (đọc nội quan) bao giờ tốt hơn, nhưng ông chọn cách đọc từ bên
ngoài (đọc ngoại quan) là phê bình cổ mẫu, trong khi đó, G.Bachelard nói vẻ đẹp
bồng bột của hình thức tác phẩm quyến rũ người đọc ngay từ đầu, nhưng ông chọn
vẻ đẹp thầm kín của vật liệu. Ông gọi đó là “thứ công việc nặng nhọc” đã “tách
biệt mọi tiếp tố ra khỏi sắc đẹp, cố gắng tìm cho ra những hình tượng
ẩn náu sau những hình tượng hiển lộ, đi đến tận gốc rễ nguồn lực của tưởng
tượng” [22]. Bởi vì theo G. Bachelard, triết học
và mỹ học thiếu hẳn cái nguyên nhân vật liệu. Văn học chính là sự bù trừ, nó
cho phép vật liệu có cá tính. Khi khảo sát sâu vào các trầm
tích của vật liệu, nhà nghiên cứu sẽ khám phá vẻ lung linh bí ẩn của nó, còn
khi khảo sát rộng, ông sẽ nhìn thấy sức mạnh vật liệu tỏa lan. Cả
hai cách làm đều giúp trí tưởng tượng trở nên nhạy cảm, tinh tường. G.
Bachelard không dừng lại ở việc nghiên cứu đơn thuần phương diện tưởng tượng
vật liệu, ông còn đi tìm mối quan hệ nhân quả giữa tưởng tượng vật liệu và
tưởng tượng hình thức. G. Bachelard triển khai nghiên cứu tưởng tượng vật liệu
của mình trên 4 nguyên tố chính của vũ trụ: Nước, Lửa, Khí, Đất, như là chất
liệu của giấc mơ con người.
Trong L'Eau et les Rêves (Nước và những giấc
mơ.1942),
Bachelard thú nhận rằng nghiên cứu Nước khó hơn nghiên cứu Lửa rất nhiều. Có lẽ
vì Nước là nguyên tố có tuổi đời già nhất. Có lẽ, do bản chất “nữ”, “đằm sâu”,
“bền vững” “kín đáo”, “đơn giản” của mình, Nước thường hiện ra trước mắt
Con Người ở phương diện bề mặt, như là cái phông trang trí, hơn là tiếng gọi
cội nguồn thẳm sâu của nó. Vậy nên, theo G. Bachelard, đi tìm những “nét đẹp tư
duy của nước”, ta phải xuyên qua các bề nổi để thấy bề sâu, xuyên qua trí tưởng
tượng hình thức để khai mở trí tưởng tượng về nội dung. Tự cho mình là “người
duy lý”- cố gắng để trở thành duy lý với Lửa – G. Bachelard
lại chọn con đường trải nghiệm với Nước, và ông trải nghiệm thông qua những
giấc mơ. Những trải nghiệm sau nói với ta hôm nay rất nhiều điều: “Nước cũng là
một kiểu định mệnh đặc thù (…) chủ yếu (…) làm cho bản chất
thực thể biến hóa không ngừng”; “Trong bề sâu của mình, con người đã có định
mệnh của nước đang chảy”; “Nó là sự biến hóa bản thể học giữa lửa và đất” [23].
Trong trạng thái chuyển động từng giây, từng phút, từng giờ, từng
ngày, nước “tư lự hơn, vất vả hơn” «bởi nó là sự sống hoài thai mầm chết». Có
thể nói, G. Bachelard đã khám phá và nhận diện Nước như một khám phá và nhận
diện một con người. Hay nói khác đi, qua Nước, ông nhận thức lại về vũ trụ và
con người. Điều ấy bộc lộ rõ qua cách dùng từ của ông. Luận điểm Nước « là
sự sống hoài thai mầm chết » đưa G. Bachelard gần với triết lý Phương
Đông. Chính nơi đây, ông đã nắm bắt cực kỳ tinh nhạy cái bản chất luân chuyển
thường trực, cực kỳ khinh khoái của Nước, như một quy luật biện chứng, bao trùm
và vĩnh hằng của vũ trụ.
Đi từ hình tượng bề nổi đến hình tượng bề sâu của Nước trong một
số tác phẩm văn học, G. Bachelard nhận ra lòng si mê bản thể cá nhân hòa vào
lòng si mê vũ trụ. Từ trường hợp Edgar Poe [24], Bachelard nói đến sự phân nhánh của
Nước. Ông xem những chi tiết nhỏ nhoi trong cuộc đời của Nước là các biểu hiện
tâm lý của người. Ông nói đến “Kiểu thân tình của nước” như một trí tưởng tượng
đặc thù. Theo ông, trong những tác phẩm văn chương mang hình tượng Nước, thường
hình thành một hợp đề tam giác: Sự Sống/Cái Chết/Nước, làm nên một Cú pháp tay
ba tương ứng. Cú pháp kinh khủng nhất trong các cú pháp, là cú pháp của những
vật thể đang dần chết, là sự sống đang hấp hối. Vì tính chất luân chuyển của
mình, Nước mang trong lòng nó cái “Tư duy về cuộc hành trình sau chót”. Tuy
nhiên, từ khả năng hòa giải, Nước tạo hợp muôn loài, và “cuộc tạo hợp giữa nước
và đất mới là kiểu tạo hợp đích thực”.
Mang tính nữ, tính mẹ, hình tượng Nước khơi dậy những mơ mộng vĩnh
cửu về sự ấm áp chở che và thuần khiết: “Nước là đối tượng của một trong những
khả năng làm tăng giá trị lớn nhất của tư duy nhân loại: đó là khả năng làm
tăng giá trị cho sự thuần khiết” [25]. Nước là Đạo đức của tự
nhiên, trong đóNước ngọt tràn đầy tính ưu việt. G. Bachelard cũng tìm
ra các hóa thân của Nước, ở đó nước có những điểm gần gũi với Người: Khi tiếp
nhận một dạng thịnh nộ, Nước chuyển từ âm (nữ tính) sang dương (nam tính) (Nước
mãnh liệt). Nước cũng có số phận, thân hình, tâm hồn và giọng nói.
Với G. Bachelard, cổ mẫu là các các hình tượng được tạo dựng vượt
lên hiện thực, nó gắn liền với những giấc mơ nguyên thủy. Người nghiên cứu phải
bám sát mối liên hệ giữa những mặc cảm nguyên bản và những mặc cảm văn hóa.
Theo ông, dưới một hình thức tốt đẹp thì mặc cảm văn hóa làm cho một truyền
thống được sống lại và trẻ ra, và ngược lại.
1.1.3. Nếu trang viết của C.G.
Jung là những luận điểm tràn đầy cảm hứng khai phá, trang viết của G. Bachelard
tràn đầy hình tượng mang tính nghệ thuật, thì Anatomy of
Criticism [Giải phẫu học phê bình. 1957] của N. Frye là những
bước tiếp cận tỉ mỉ khoa học. Quan tâm đến chức năng và tác động của cổ mẫu, N.
Frye cho rằng cổ mẫu “giữ một vai trò chủ yếu trong việc làm mới chất liệu văn
học, tạo thành một thế giới ngôn từ đặc biệt, dễ nhận thức và lưu lại ấn tượng
lâu bền, vì đã đáp ứng được những nhu cầu và quan tâm của con người”[26]
N. Frye đã xác lập các phân loại tinh vi về các mô thức, các biểu
tượng, các huyền thoại, các thể loại… và tìm ra mối tương quan phức hợp, toàn
diện giữa các thể loại văn học cơ bản (anh hùng ca, bi kịch, hài kịch, châm
biếm) với các huyền thoại, cổ mẫu và nhịp vận hành của vũ trụ (xuân, hạ, thu,
đông). Phân tích hai phạm trù cơ bản là cái hài và cái bi, N. Frye cho rằng,
trong cái hài, có hài kịch cùng những nhân vật tái sinh và
phục sinh, tương ứng với mùa xuân và anh hùng ca cùng motif chiến thắng và lễ
cưới, tương ứng với mùa hè là đỉnh điểm của sự sống trong năm. Ngược lại, trong cái
bi, có bi kịch với motif kết thúc bằng ngày tàn hay cái chết của nhân vật
chính, tương ứng với mùa thu là thời khắc rụng rơi, và châm biếm trào phúng là
thể loại chế giễu, làm vỡ mộng, tượng trưng cho bóng tối, sự tan rã, sự trở lại
của cái hỗn mang, và sự thất bại của hình tượng người anh hùng, tương ứng với
mùa đông lạnh lẽo và u ám. Như vậy, theo N. Frye, để cắt nghĩa một biểu tượng
trong tác phẩm văn học, phải căn cứ vào tính chất của mỗi thể loại, tương ứng
và chất liệu tự nhiên mà biểu tượng ấy thuộc về. Nêu các chất liệu tự nhiên:
con người, loài vật, cây cối, khoáng sản, nước, N. Frye phát hiện:
Ở con người, cái hài biểu hiện qua ước muốn sống tập trung cộng
đồng và sự viên mãn; ngược lại, cái bi nói lên tình trạng chuyên chế, cô độc và
thất bại. Ở loài vật, cái hài nằm trong hình tượng các gia súc và vật chăn (như
cừu), cái bi nằm trong hình tượng các con vật ăn thịt sống và săn bắt (như chó
sói). Trong thế giới thảo mộc, hài kịch là đồng quê được biểu hiện bằng hoa
hồng, hoa sen vườn tược, còn bi kịch là rừng rậm hay cánh đồng hoang cằn. Trong
khu vực khoáng sản, cái hài là thành phố, đền đài hay đá quý, cái bi là sa mạc,
phế tích hay thiên tai của đất như núi lửa, động đất, thiên thạch.... Cuối
cùng, trong vương quốc của nước, cái hài biểu hiện bởi dòng sông, cái bi
là biển cả, và đặc biệt là cái thiên tai từ nước như lũ lụt, sóng thần...[27]
Có thể thấy, qua phát hiện này, N. Frye đã gần như xâu chuỗi lại
các biểu tượng vốn chuyên chở các giá trị khác nhau, kết tinh của trải nghiệm
và ước mơ của nhân loại, đã đi vào mỹ học và văn chương. Có lẽ, phải hiểu sâu
mỹ học phương Tây và quan sát kỹ các thể loại chính của văn chương cổ điển
phương Tây, mới thấy hết sức thuyết phục của luận điểm N. Frye. Để người ta
không xem những gợi ý trên là toàn bộ mô hình nghiên cứu cổ mẫu, N. Frye yêu
cầu phải thường xuyên bổ sung và chú ý những ngoại lệ. Theo ông, có những cái
không nằm trong phạm trù mà ông đề xuất, thì gọi là cổ mẫu trung tính
(neutral archetype). Rõ ràng, N. Frye đã kịp thời bổ sung để không sa vào một
kiểu phân lập nhị nguyên quá rạch ròi, e sẽ không đáp ứng đầy đủ những hiện
tượng kỳ diệu bất ngờ của vũ trụ và những biểu hiện đa dạng của con người.
Đi tìm cổ mẫu là chạm đến biểu tượng, bởi “Nghệ thuật trốn chạy ký
hiệu và nuôi dưỡng biểu tượng” [28]. Chúng ta đã xác định điều này ở phần
trên, tuy nhiên khi bắt tay vào khảo sát, thực tế cho thấy xác định biểu
tượng trong văn học là việc không dễ dàng, khám phá cổ mẫu trong biểu tượng,
công việc lại tinh tế hơn. E ngại sự suy diễn là hoàn toàn có lý. Dù đồng ý với
nhau rằng, biểu tượng xuất hiện khi có hai hình ảnh hay hai thực tế có một
tương quan về cấp độ, và “Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập
vỡ; ý nghĩa của biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ vừa là nối kết
những phần của nó đã bị vỡ ra”[29], nhưng các nhà khoa học cũng đưa ra những
cách hiểu khác nhau về biểu tượng. C.G. Jung coi biểu tượng là một sản phẩm của
tự nhiên, triệu chứng của một tình huống xung đột có khi không là kết quả ngụy
trang. Ngược lại, S. Ferenczi [30] cho rằng: “Không phải mọi so sánh
đều là biểu tượng, mà chỉ là biểu tượng những so sánh trong đó vế thứ nhất bị
dồn nén vào vô thức” [31]. Vậy chỉ những người bị ẩn ức, phải
ngụy trang mới hay xây dựng biểu tượng.
1.2. Chưa đủ điều kiện để nắm
bắt toàn cảnh về phê bình cổ mẫu, người viết đã chỉ trình bày những phương diện
mà mình tiếp cận được. So với nhiều trường phái phê bình khác, lịch sử của phê
bình cổ mẫu không dài, vị trí của nó cũng khiêm tốn. Vốn là một xu hướng khởi
đi từ phân tâm học, phê bình cổ mẫu hình thành trong tinh thần dung hợp cởi mở
các thành tựu khác (văn hóa học, nhân học, lý thuyết về người đọc…). Đề cao
tính trải nghiệm và khước từ việc đưa ra mô hình, những công trình của các nhà
phê bình cổ mẫu thường như là một tìm tòi dò dẫm đầy cảm hứng mang tính cá
nhân. Những nhà phê bình cổ mẫu lớn thường uyển chuyển về quan niệm và mềm mại
về phương pháp, họ luôn có ý thức chống lại sự xơ cứng, giản lược. Trong lịch
sử của phê bình cổ mẫu, số công trình giá trị gắn với một số ít tên tuổi, cho
đến nay vẫn còn sức hấp dẫn. Bên cạnh đó, cũng không ít người thất bại vì muốn
đưa ra những phương pháp quá cụ thể.
Nhấn mạnh mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, cả về phía người
viết lẫn người đọc. Chú ý sức lan tỏa tiềm tàng và bền bỉ của các cội nguồn văn
hóa. Nghiên cứu hệ thống cổ mẫu như là chuỗi biểu tượng tương tác từ văn bản
này sang văn bản khác. Phải chăng, phê bình cổ mẫu đã góp phần chuẩn bị hay tái
sinh trong các xu hướng tiếp?
2. Cổ mẫu Nước trong văn chương Việt Nam
2.1. Nước ở Việt Nam
Việt Nam có khái niệm đất nước, trong đó Nước là
yếu tố chủ đạo:
Tôi yêu tiếng nước tôi
Từ khi mới ra đời
À ơi
Mẹ hiền ru những câu xa vời…
(Phạm Duy, Tình ca)
Từ khái niệm đất nước, khi tách ra đứng một mình, Nước
trở thành một từ đơn đủ đầy, trọn vẹn để diễn đạt một phạm vi lãnh thổ: nước tôi, nước anh, nước bạn, nước giàu, nước nghèo, nước xa, nước gần…
Sống ở trên đất, nhưng sao người ta dùng Nước để
nói về? Nước khi ấy không còn là một thực thể vật chất hữu
hình. Nước là cội nguồn của một cộng đồng, là cái nôi của một cá nhân. Cái bản
thể khởi nguyên phong phú, linh hoạt của nước cho phép nó hóa thân thành một từ
giản dị, cụ thể, nhưng ứ đầy ý nghĩa, trong chọn lựa nhạy cảm của người Việt.
Là khởi nguyên của mọi khởi nguyên, nước trở thành ý niệm gần gũi thiết thân,
hiển hiện thành cái từ luôn đọng trên môi người Việt. Không chỉ có đất
nước, người Việt còn có non nước, giang sơn… Có lẽ
cũng sẽ có lúc cần làm cuộc truy tìm thời điểm xuất hiện của từ nước trong
ngôn ngữ Việt?
2.2. Nước trong văn chương Việt Nam
2.2.1. Hệ hình cổ mẫu Nước trong văn chương Việt Nam
Đọc lại tác phẩm văn học dân gian và văn học thành văn Việt Nam,
người viết ghi nhận trong văn học Việt Nam có nhiều cổ mẫu Nước, trong đó có
những cổ mẫu chung của nhân loại và những cổ mẫu riêng của cộng đồng người
Việt, thoát thai từ huyền thoại. Dựa vào các tiêu chí trội bật, linh
hoạt, lan tỏa cùng với tần số xuất hiện, bài viết chọn và
tập trung khảo sát một số cổ mẫu quan trọng, xuyên qua các đơn vị là tác phẩm,
từ văn học dân gian đến văn học thành văn, không phân biệt thể loại. Những tài
liệu về triết học và văn hóa học ở Việt Nam, khi đề cập đến vũ trụ quan người
Việt nói riêng (và phương Đông nói chung) thường nêu ra cặp phạm trù đối lập
đầu tiên là Đất và Trời, tương ứng với Mẹ và Cha, Âm vàDương. Tuy
nhiên, trong khi đọc tác phẩm văn học, người viết nhận thấy, dù cổ mẫu Trời đã
xuất hiện rất sớm trong huyền thoại (Thần Trụ trời, Bánh chưng bánh dầy...)
và tiếp tục lưu dấu trong văn chương (Tản Đà, Hầu trời, Tiễn
Ông Công lên Trời…), nhưng trong tương tranh với Nước để
được sánh đôi cùngĐất, cổ mẫu Trời đã có phần lép vế,
dấu ấn của nó nhòe đi, và cặp cổ mẫu Đất và Nước trội
lên trong văn chương, khi xoắn xuýt, khi tạm rời, làm nên ám ảnh: Đẻ
đất đẻ nước, Quả bầu mẹ, Con Rồng cháu Tiên, Chử Đồng
Tử, Trương Chi, Sơn Tinh Thủy Tinh, Mỵ Châu Trọng Thủy, Thiếu phụ
Nam Xương, Thơ Hồ Xuân Hương, Thơ Tản Đà, Thơ Bùi
Giáng, Thơ Trần Dần, Truyện Nguyễn Huy Thiệp…
Vốn bao la và đa dạng, Nước mang trong lòng nó
những hình thái khác nhau: nước phi hình (lụt, mưa, sương), nước hữu hình
(biển, sông, suối, ngòi, hồ, đầm, giếng, khe…)và mỗi hình thái này đến lượt nó,
lại có khả năng trở thành những biểu tượng và những cổ mẫu văn chương mới.Các
nhà nghiên cứu gọi đó là hệ hình cổ mẫu nước. Những cổ mẫu con này vừa dung
chứa những nét chung của cổ mẫu mẹNước - đặc biệt là tính cố định,
luân chuyển và sinh sôi - vừa hình thành những nét riêng. Lại xuất hiện
những cặp cổ mẫu sóng đôi mới: Non Nước, Non Sông… Có
thể thấy, cổ mẫu Nước trong tác phẩm văn chương Việt Nam có
những nét lớn, gần như trùng khít với cổ mẫu Nước trong nhiều
tác phẩm văn chương thế giới. Điều ấy cũng dễ hiểu, bởi Nước là khởi đầu của
mọi cái khởi đầu, vì vậy cảm giác của con người trước tiên gắn liền với Nước.
Đó có thể là những ghi nhận trực quan về đặc điểm vật chất của nước: mềm mại,
trong trẻo, tinh khiết, luôn chuyển động, biến hóa, và xuyên thấm… Đó cũng là
những trải nghiệm thực tế về nước: là nguồn sống của vũ trụ, đồng thời là một
sức mạnh bạo liệt có khả năng xóa sạch mọi cái trên mặt đất này.
Trong suy tưởng về Nước, văn chương Việt Nam nắm
bắt Nước trong cả hình thái nước phi hình (lụt, mưa,
sương) và hình thái nước hữu hình (biển, sông, suối, ngòi, hồ, đầm, giếng,
khe…).
2.2.1.1. Nước phi hình
Trải nghiệm đầu tiên của con người về nước, có lẽ là trải nghiệm
về sức mạnh của nước. Huyền thoạiLụt là một trong những huyền thoại
xuất hiện sớm nhất của nhân loại, và cổ mẫu lụt là cổ mẫu xưa nhất trong cổ mẫu
nước. Trong cuộc tiếp xúc này, nước in lại trong tâm thức con người một khuôn
mặt kép: nước vừa là kẻ hủy diệt, vừa là kẻ tái sinh.
Việt Nam cũng có huyền thoại về nạn lụt. Huyền thoại Quả
bầu mẹ vàsử thi Đẻ đất đẻ nước có cốt truyện giống
với huyền thoại của các dân tộc trên thế giới: khi cơn đại hồng thủy dữ dội
chưa từng có trong lịch sử loài người xảy ra, chỉ có hai anh em ruột, một nam
một nữ, may mắn sống sót, họ buộc lòng kết hợp với nhau để duy trì nòi giống.
Âm hưởng của hai tác phẩm văn chương này cũng hòa với âm hưởng chung của các
huyền thoại thế giới: hình như người xưa không xem đó là thiên tai đáng nguyền
rủa, “Bởi sau một phủ định, một xóa sạch là khẳng định, là nẩy mầm, tái sinh”.
Tuy nhiên, điểm sáng tạo của Quả bầu mẹ và Đẻ đất đẻ
nước là ở chỗ, bên cạnh cổ mẫu Lụt chung, chúng đã bổ
sung vào di sản nhân loại cổ mẫu Quả bầu và Cây si.
Là đứa con của đất và nước, qua bàn tay vun trồng của con người tiểu nông (sự
kết hợp giữa Trời và Người), Quả bầu là một thứ quả rất thân
thuộc với người Việt (và vùng Đông Nam Á, nói chung?). Từ đó mới có hiện tượng
phái sinh trong từ vựng tiếng Việt: có bầu, là có thai, mang thai. Qua cổ
mẫu Quả bầu, có thể thấy người Việt cổ đã quan niệm: để giải
quyết những vấn đề của Tự nhiên, cần có sự tham gia của lực lượng Tự nhiên, con
người cần nắm được “cái then Tạo hóa” mà hành động, chứ không thể tự mình làm
nên tất cả.
Có thể nói, trong hình thái nướcphi hình, Nước được
thể hiện như là chính nó, từ trời rơi xuống, từ đất bốc lên, nghĩa là chạm đến
cái luân chuyển linh hoạt kỳ diệu của Nước như là sự giao hòa
trong vũ trụ. Bài thơ Thề non nước của Tản Đà, là một
ví dụ. Nước ở đây được nhìn trên góc độ bản thể, trong tương
quan với Non (là Núi, nhưng được mặc lên ý nghĩa
tinh thần), làm thành đôi bạn tâm tình, nói với nhau những lời thắm thiết: « Non
cao đã biết hay chưa/ Nước đi ra bể lại mưa về nguồn »…
Lạ thay là tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ Thần Mưa (Pháp
Vũ), nhưng sau trận mưa lịch sử trong Đẻ đất đẻ nước, những
huyền thoại và cổ tích sau đó của Việt Nam rất ít có Mưa. Trong ca
dao Việt, Mưathấp thoáng, biểu tượng của phận nữ, lênh đênh, không
có được quyền tự chủ : Thân em như hạt mưa sa, Hạt rơi xuống
giếng, Hạt ra ngoài vườn.
Mưa, sương xuất
hiện trong văn chương Việt Nam trung đại cũng tiết chế. Mưa ở
đây chưa phải là nhân vật, và như vậy cũng chưa thể là biểu tượng. Tuy vậy,
cũng có thể dẫn ra đây những hình ảnh mưa, sương giàu sức gợi: « Đầm
đìa lá liễu hạt sương gieo», «Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm», «Đôi
gò bồng đảo sương còn ngậm» (Thơ Hồ Xuân Hương) «Chồi thược dược mơ mòng
thụy vũ» (Nguyễn Gia Thiều,Cung oán ngâm khúc), để có thể nghĩ rằng
người Việt xưa cũng nhìn thấy Mưa, Sương như là ân sủng
của Trời, cho nên mới có những khái niệm «ơn mưa móc», «cuộc mây
mưa»... Mưa, Sương xuất hiện ngày càng nhiều hơn trong tác
phẩm văn chương hiện đại, như là motif phổ biến. Có thể nhặt ra trong Thơ
Mới những khúc dạo đầu chậm rãi, rời rạc: Sương trinh rơi kín từ
nguồn yêu thương (Xuân Diệu,Chiều). Chiều mưa trên bãi,
nước sông đầy (Huy Cận, Vạn lý tình). Đậm hơn là Bùi
Giáng, sau đó: Chân năm ngón như sương đầm lá ướt (Đường
Xuân); Đêm cuồng mưa khóc điên. Trăng cuồng mưa trốn gió(Bờ
lúa).
Rồi trong thơ Trần Dần và truyện Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta
gặp Mưa, Sương như là ám ảnh đặc biệt. Đó là mưa nhiệt đới
cuồng bạo, là sương nhiệt đới u ám, vây phủ con người.
Như định mệnh, Trần Dần mở đầu con đường thi ca của mình bằng cảm
xúc mưa: Anh đã đợi những chiều mưa-trước cửa (Chiều mưa –
trước cửa, bài thơ đầu tay,1944) [32], để rồi từ đó trở đi, mưa là một biểu
tượng lớn của thơ ông, là nỗi ám ảnh, niềm khắc khoải của con Người: Tôi
đã trót tìm con số của mưa. Tôi không chọn con số của thành công - của tính
toán (Tôi chẳng phải là tù binh quả đất?). Trong
bài thơ Nhất định thắng, lý trí thì xác tín vào sự nghiệp của cộng
đồng, nhưng tình cảm thì hoang mang, xui nên điệp khúc: Tôi bước
đi /không thấy phố/không thấy nhà, /Chỉ thấy mưa
sa/trên màu cờ đỏ…Điệp khúc trên và không gian mưa bao trùm, xuyên
thấm toàn bộ cấu trúc bài thơ đã mang đến một hiệu ứng mà một số người - đọc -
quyền uy lúc bấy giờ không chịu nổi: Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc/Đất hôm
nay tầm tã mưa phùn/Những cơn mưa rơi mãi tối sầm/Non nước sụt
sùi mưa/Tôi muốn bỏ thơ /làm việc khác/Cô đơn mưa tái
nhợt đầu ô (Nhất định thắng). Cả tình yêu riêng
tây(Tình yêu của anh như câu cổ tích/Kể trong một tối mưa dầm, Yêu),
và lòng yêu Tổ quốc đều ngập trong màn mưa, đều lọc qua cái nhìn
của người chứng mưa. Nhưng mưa ở đây vẫn còn nằm
trong nắm bắt hữu thức của Trần Dần. Càng về sau, mưa đích
thực là cổ mẫu, trong cái “bè đệm hiện sinh của nó”. Hàng loạt bài
thơ của Trần Dần như một chất dẫn truyền, một dung dịch, trong đó biểu
tượng mưa phập phồng, từ cái nhập nhoạng của một tâm hồn bị
lấp mất lối về cuộc tồn sinh xã hội. Mưa, mảnh vỡ của sự phá hủy,
tàn lụi: Linh cữu một mình tôi vác đêm mưa/ Một mình mưa hì hụi tha
ma (Tình yêu xám). Căn nhà thi sĩ đổ. Mùa mưa (Đừng
yêu).Mưa, mảnh vỡ của khuôn mặt người đói khát: Cơn
mưa rậm rì trộn vả-cơn mưa ngoa trộn sung (Chờ). Mưa rơi đỗ
xanh. Lanh tanh đường nhựa…(Mưa kỷ hà). Mưa, mảnh
vỡ của khuôn mặt người cô độc, đánh mất tương giao: Mưa phùn lẩm bẩm (Không
đề số 4. Mưa rơi phay phay (Đường vô tận). Chín bức mưa thư. Mưa
tách hột kính hạt. Ưa mưa tia nhia nhia (con OEE). Quả đất
mưa/Trú mưa mãi /dưới /mái hiên mệt mỏi/thành fố héo hon/những hạt mưa /đuổi
nhau /như những nốt nhạc tẩu khúc/đối thoại của mưa lẩm bẩm cuối tuần (Mưa). «Mưa
rơi không cần phiên dịch». Mưa, mảnh vỡ của khuôn mặt người
tuyệt vọng, không chỉ tuyệt vọng về thân phận mình, mà cả không gian chung
quanh, tất cả như lềnh bềnh trong vũng ngập: Mưa xoá địa zư ngày. Mây
ám địa zư trời. Mắt trắng địa zư đời. địa đồ trôi. Trôi-trôi (Lời
là không- lời. Thơ- không-lời rất có lời. Đôi khi nhiều…), tanh
tưởi, tàn bạo: Ôi mưa máu như chưa bao giờ mưa thế cả? (Chân
trời &Chân mây). Mưa mang khuôn mặt mù mờ mộng mị của
nhà thơ:Một chút nghề mưa…Gửi người chưa gặp? Mỗi ngày-thu dọn một chân mây.
Tôi vác/ CÁI ĐẦU MA XÓ/qua những ngã tư…/mộng du mưa/ hai mắt tù mù. Và
cái nét lập thể, hỗn mang mới của thời hiện đại cũng biểu hiện qua mưa: Mưa
vuông (Kể kệ)... Mưa mảnh sành (thu 1976).
Phố khỏa thân mưa/ In hình võng mạc nước(Đố ai chọc mắt các vì sao?).
/« phép cửu chương-mưa »/mưa rất xưa mà thu rất xanh.Cùng với
mưa, sương của Trần Dần cũng khác thường. Sương của
ông gắn liền với không gian phố thị, và cái chất bảng lảng, nhoà nhạt vốn thi
vị của sương lâu nay đã không còn tăm tích. Sương dung
tục, thô bạo chen vào cuộc sống con người: Sương xuống ngậm công
viên (Khách bộ hành). Sương bay lèm nhèm đại lộ (Đại
lộ khói). Sương sa lia lịa (Phố vô lý) Sương sa
cà khịa (Chiều vô nghĩa). Có thể nhận ra, đây là sương mù,
“biểu tượng của tính không xác định” hay “giai đoạn quá độ giữa hai trạng
thái” [33].
Rõ ràng trong thơ Trần Dần, Mưa và Sương không
dừng lại như là một không gian, một đối tượng, một cảm hứng mà là một chất
sống. Khi không còn khả năng chạm vào Nước - xã hội, Trần Dần đành tiếp xúc với
Nước - tự nhiên. Và Trần Dần đã chọn hình thái cao nhất của nước là Mưa, Sương,
vốn tự do luân chuyển, không bị khuôn vào bất kỳ một cái khung vật chất
nào: từ một thu không lặng gió. Tôi tái sinh trong nước một tia
nhìn (Sao còn bày biện mãi trời lam?). Mưa và Sương, với tư
cách là biểu tượng và cổ mẫu trong thơ Trần Dần mang nét độc đáo của một trải
nghiệm cá nhân, một con người chọn Ngôn từ (Thơ) và Thiên nhiên (Nước) làm điểm
tựa, để sống còn, nghe nhìn, cảm nghĩ, và ... viết. Cổ mẫu Mưa và Sương của
Trần Dần, từng mảnh, lấp lánh sắc màu lạ của cái cá biệt và cái hiện đại. Nhưng
các mảnh này khi hợp vào nhau, cũng sẽ làm nên một bảng phối màu hài hòa
để nói lên sức mạnh tái sinh của nước.
Là người viết văn xuôi, Nguyễn Huy Thiệp thường tái hiện những con
Người bi kịch và Thiên Nhiên kịch tính. Truyện của ông tràn đầy các biểu tượng
thiên nhiên, thiên nhiên là nhân vật, xuất hiện ngay từ cái tên: Chảy
đi sông ơi, Muối của rừng, Con gái thuỷ thần, Mưa, Vàng lửa, Sang sông,
Mưa Nhã Nam, Những ngọn gió Hua Tát, Hoa sen nở ngày 29 tháng 4, Như những ngọn
gió… Biển hấp dẫn ông hơn hết, vì chất kịch tính trong nó,
nhưng vẫn còn là một ảo ảnh, một tiếng gọi, Mưa mới là một
thực tại. Gần như không có một trang viết nào của Nguyễn Huy Thiệp lại thiếu
vắng mưa. Mặc dù có lúc dằn dỗi: Mưa cũng như rừng và thiên nhiên nói chung:“vô
tình, vô cảm, thản nhiên, lạnh lùng, tàn nhẫn”, cái cách Nguyễn Huy Thiệp miêu
tả mưa (và các hiện tượng thiên nhiên khác) cho thấy ông tin là có một tương
giao bí ẩn giữa Người và Trời. “Hôm Nguyễn ngỏ lời cầu hôn, trời mưa như trút.
Đồn rằng hôm ấy có rồng bay trên sông Cái” [34]. Mưa là người chứng cho đôi tân nhân
Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ: «Mưa tháng Tư
là thứ mưa đầu mùa ở vùng nhiệt đới. Nhoằng
một ánh chớp, một làn gió thoảng qua là mưa liền, không sao lường được. Bắt đầu
tưởng là cơn mưa bóng mây không phải ngại gì, bỗng thoắt là mưa đá, sấm rền,
sét nổ. Mưa như roi quất, tàn bạo, hung hãn. Mây đen cuồn cuộn, gió giật liên
hồi rồi mưa như những thác nước trên cao đổ xuống ào ào” (Mưa Nhã Nam).
Cơn mưa ấy đã dập tắt mối duyên tình vừa chớm giữa Đề Thám, người đàn ông nhất
trong tất cả đàn ông, và Xoan, người phụ nữ nhất trong tất thảy những người phụ
nữ, anh hùng và thuyền quyên, để chúng ta được nhìn thấy nước mắt và khúc bi ca
của người anh hùng: « Những giọt nước mưa mặn chát ướt đầm trên khuôn
mặt ông./ Mưa như thế, bắt đầu từ lâu rồi /Rồi mưa cùng với thời gian sẽ
xóa đi thôi, xóa hết/ Xóa tất cả, rửa đi tất cả/ Chúng ta bị rửa đi như rửa
xương khi bốc mộ/Có cơn mưa nào?/Có đôi mắt nào nhòa ướt cho anh? » [35]. Cơn mưa đầu hè báo hiệu một điềm
gở, một sự trừng phạt của Trời: «Từ phía đằng đông, mây đen kéo đến ùn ùn,
không có tí ti gió nào. Một vài hạt mưa rất to lộp độp rơi xuống mái ngói (…)
Thằng Phúc reo lớn: « Mưa đá !». Reo xong nó chạy ra sân. Bỗng lòe
một cái, rồi một tiếng sét long trời lở đất vang lên. Khói ở ngoài sân bốc lên
một đụn den ngòm khét lẹt. Cô Chiêm và Phong ngã lăn ra, mái ngói xô ầm ầm. Lát
sau phong tỉnh lại, tê dại cả người, thấy cô Chiêm đang gào thét bên xác thằng
Phúc giữa sân. Mưa như trút nước nhưng mùi khét vẫn nồng nặc [36]. Mưa xuân làm cho «thiên nhiên vừa
trang trọng vừa tình cảm », làm cho con người tìm lại trạng thái an hòa:
«Mưa xuân dịu dàng nhưng rất mau hạt. Ông cứ trần truồng như thế, cô đơn như
thế mà đi. Chỉ một lát sau, bóng ông nhòa vào màn mưa» [37]. Và cuối cùng mưa mang lại điều kỳ
diệu: «Trận bão ấy, ở bãi Nổi trên Sông Cái, sét đánh cụt ngọn cây muỗm đại
thụ. Không biết ai nói trông thấy có đôi giao long quấn chặt lấy nhau vẫy vùng
làm đục cả một khúc sông. Tạnh mưa, dưới gốc cây muỗm có một đứa bé mới sinh
đang nằm. Đứa bé ấy là con thuỷ thần để lại» [38].
Có thể thấy, với Nguyễn Huy Thiệp, mưa là biểu tượng của cái
huyền. Mưa mang tới các điềm lành, dữ, thảy đều thiêng liêng, con người không
thể ơ thờ. Mưa mùa hè thường dữ dội, bất tường. Mưa Xuân thường dịu dàng nhưng
đôi khi bất trắc. Đặc biệt, cũng như Trần Dần, Nguyễn Huy Thiệp nhấn mạnh tính
chất nhiệt đới trong Mưa.
2.2.1.2.
Nước hữu hình
Cổ mẫu Biển Xuất hiện sau Đẻ đất đẻ nước, huyền thoại Con
Rồng cháu Tiên đã nói lên sự phân ly giữa Đất và Nước,
giữa Núi và Biển, qua hình ảnh «một người về đầu
non, một người về vực sâu» (Trịnh Công Sơn) của đôi uyên ương Tiên Rồng, thủy
tổ của dân tộc Việt. Bởi nhân vật Âu Cơ – « người ở trên cạn » cũng
chính là biểu tượng gắn liền với Đất, người mẹ vĩ đại đã hoài thai
trăm trứng, đã nuôi dưỡng trọn vẹn trăm con, đã dũng cảm tách lìa người đàn ông
và năm mươi con của mình, mà vẫn vững vàng tạo nên cơ nghiệp cho đàn con còn
lại. Còn Lạc Long Quân – «người ở dưới nước», đưa năm mươi con về với Biển quê
hương và hút bóng. Cuộc phân ly này, theo như mạch chuyện huyền thoại, tưởng
như một chọn lựa chủ động và bình thản. Kỳ thực, dường như từ đó trở đi, trong
văn chương người Việt,Núi và Biển ngàn trùng cách
biệt.
Đến Sơn Tinh Thủy Tinh - mà nhiều người
cho là huyền thoại về lụt, hay huyền thoại về cuộc chiến giành đàn bà - Biển
trở thành biểu tượng của kẻ đến sau, thất bại và không nguôi cay đắng, chỉ vì
sự thiên vị của con người (Vua Hùng thách cưới «voi chín ngà, gà chín cựa,
ngựa chín hồng mao»). Trong nỗi đau của mình, qua nhân vật Thủy Tinh, Biển
không còn trong mình cái tinh thần của Mẹ Nước trước đây: là mạch sống của Đất.
Huyền thoại Sơn Tinh Thủy Tinh nói với chúng ta rằng Biển đã
ly khai, và trở thành biểu tượng của kẻ phá hoại không mệt mỏi mảnh đất loài
người. Nếu với Thủy Tinh, diễn biến câu chuyện cho phép cổ mẫu Biển mang
hai biểu tượng: kẻ thất bại và kẻ phá hoại, thì với Sơn Tinh, trí tuệ người xưa
đã hai lần đánh lận với lẽ thường, một là luật chơi của người, hai là luật chơi
của tự nhiên, để Sơn Tinh trở thành vừa là biểu tượng của kẻ thắng, vừa là hình
ảnh của người có khả năng làm điều phi thường. Qua hình tượng Sơn Tinh, Núi đã
khác với yếu tính của Đất Mẹ, có thể luân chuyển và biến đổi («Nước dâng lên
cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi núi mọc cao lên bấy nhiêu» Sơn
tinh Thủy Tinh, huyền thoại; «Vung tay niệm chú. Núi từng dải,/ Nhà lớn,
đồi con lổm ngổm bò/ Chạy mưa» - Nguyễn Nhược Pháp, Sơn Tinh Thủy Tinh).
Nhưng dù là kẻ phá hoại, Biển vẫn có mặt thường xuyên với Đất và
Người dân Việt «Từ đó không năm nào Thuỷ Tinh không làm mưa, làm bão dâng nước
lên đánh Sơn Tinh, gây nên lụt lội khắp vùng đồng bằng và trung du nước ta».
Từ truyền thuyết Mỵ Châu Trọng Thủytrở đi, một
thời gian rất dài, cổ mẫu Biển gần như khuất dạng trong văn
chương Việt Nam. Có lạ không, khi dải đất hình chữ S nằm duỗi mình theo
biển ? Phải chăng dấu ấn cuối cùng đậm sắc trong ký ức người Việt cổ
về Biển vừa là biểu tượng về bước đường cùng của người anh
hùng, vừa là chứng nhân tàn nhẫn của ba bi kịch lồng ghép vào nhau: bi kịch của
một người lãnh đạo cộng đồng hiếu hoà và tự mãn (An Dương Vương), bi kịch của
một người phụ nữ thuận thảo với cha, hết lòng với chồng (Mỵ Châu), bi kịch của
một người đàn ông vừa phải tròn phận trung hiếu, vừa phải giữ nghĩa phu thê
(Trọng Thủy). Biển, như vậy là một kỷ niệm đớn đau và nhục nhã mà
người Việt cần phải quên đi, dù ánh sáng của trái tim đã mách bảo cho người xưa
một liệu pháp hóa giải bi kịch, vào cuối truyện: ngọc - hồn Mỵ
Châu ở biển Đông rửa giếng - lòng Trọng
Thủy lại trở nên đẹp đẽ bội phần. Nhưng nói như vậy liệu có là suy diễn quá
không? Có người cho rằng văn chương Trung Quốc cũng không mặn mà với Biển:
«Thi sĩ Phương Đông không ưa tả biển, không biết tả biển, nhưng tả cảnh thanh
phong minh nguyệt thì thật là thần bút» [39]. Và những năm Bắc thuộc dài dằng dặc
đã xua đi cái biểu tượng lẽ ra rất là gần gũi đó trong vô thức người Việt.
Trong giấc mơ của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà… đặc biệt là
Hồ Xuân Hương (với những bài thơ mà Đỗ Đức Hiểu khi đọc đã phải kêu lên «rất
nhiều nước, sao lắm nước thế») - những con người tràn đầy khát vọng tự do,
thấm thía cái chật hẹp ngột ngạt của không gian văn hóa Việt Nam thuở ấy - vẫn
chưa có chỗ dành cho Biển. Trong kiệt tác Truyện Kiều của
Nguyễn Du, cái hình ảnh «Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng
cánh buồm xa xa ? Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh/Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh
ghế ngồi» vẫn là một điểm xuyết quá nhạt, trong khi sông Tiền
Đường đã là một biểu tượng quan trọng.
Mãi sang thế kỷ XX, văn hóa phương Tây đã đánh thức ít nhiều cảm
quan về Biển trong những nhà văn Việt Nam hiện đại. Bùi
Giáng tự giới thiệu khuôn mặt thơ của mình: «Hỏi tên, rằng: Biển - Dâu - Ngàn /
Hỏi quê, rằng “Xứ Mơ Màng”, đã quên”, Biển quả thật là
một môtíp bàng bạc lai láng trong thơ Bùi Giáng, nhưng khe, suối, lạch với
ông lại giàu sức gợi hơn. Chỉ đến Nguyễn Huy Thiệp, Biển mới
được nói to lên, bồi hồi, thôi thúc trong Chương, chàng trai trẻ đồng bằng Bắc
Bộ: «Nàng là ai? Con gái thủy thần? Nàng ở đâu? Con gái thủy thần?» «Trước
mặt tôi là giòng sông đang thao thiết chảy. Sông chảy ra biển. Biển rộng vô
cùng. Tôi chưa biết biển… mà tôi sống nửa cuộc đời rồi đấy… Thời gian cũng thao
thiết trôi. Chỉ ít năm nữa đến năm 2000... Tôi đứng lên, đi về nhà. Ngày mai
tôi đi ra biển. Ngoài biển không có thủy thần [40]. Giấc mơ Biển trong
tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp là giấc mơ vượt thoát khỏi không gian tâm tưởng và xã
hội, quán tính, tù đọng, đã tơi tả những lớp son tô vẽ (Mẹ Cả - Gianna Đoàn Thị
Phượng - Cô Phượng - khúc gỗ mục của Lão già Đô Thi), đã luôn ràng buộc con
người bằng những hệ lụy nhỏ nhoi, vụn mảnh (Phượng kế toán và Phượng con ông
trùm đạo), để tìm đến một cái gì toàn vẹn và mới mẻ: «Con thuồng luồng nín
hơi bơi đi / Tránh những bến quen ê chề / Này bọn
cá mương, cá ngao / Mày có bao giờ mơ về đại dương».
Trong cái nhìn của Võ Thị Hảo, một nhà văn nữ Việt Nam đương đại,
Biển là biểu tượng của khả năng cứu chuộc. Biển bao la cũng là Biển bao dung:
Ba ngày sau, xác người đàn bà nổi lên dạt vào chân đảo đèn. Lúc đó
anh vừa tỉnh giấc, linh tính một điều khác thường. Và anh trông thấy người đàn
bà mà anh từng gần gũi xác thịt, cũng từng ghê tởm, đang đung đưa, đung đưa dịu
dàng bên chân đảo. Và anh kinh ngạc trước sự cứu rỗi của biển. Khuôn mặt tàn tạ
trước đây của người đàn bà ấy bây giờ đã giãn ra, thơ thới và không thể tin
được, mang vẻ kiêu hãnh với đường viền mi khép hờ. Tấm thân gầy ốm giờ đây như
đầy đặn lên, đung đưa, đung đưa như cử động uyển chuyển của người sống, trên
mình vương những mảnh vải xác xơ mà lại mang vẻ siêu phàm. “Ta tha thứ cho các
người” - cái miệng hé mở của người đàn bà như nói [41].
Dù thế nào, cũng nhận ra rằng, trong văn chương Việt Nam, Biển đã
không tạo thành một cảm hứng nghệ thuật lớn và liên tục. Dân tộc Việt phần lớn
đã quay lưng lại Biển. Phải chăng bởi vì người Việt thoáng nhận ra,
từ bản chất, Biển luôn ở trạng thái chuyển động mạnh, là
sự «quá độ giữa các khả năng còn phi hình và các thực tại đã hiện hình, một
tình thế nước đôi, bấp bênh, hồ nghi» [42] nên e ngại? Bên cạnh đó,
quan niệm «Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy» thoát thai từ Trung Quốc, có
lẽ ít nhiều cũng thuyết phục trí thức Việt Nam, vốn chọn chữ Nhân làm đầu. Bên
cạnh cổ mẫu Biển, những người anh em của nó có phần được ưu ái hơn,
đặc biệt là Sông, Đầm, Giếng.
Cổ mẫu Sông Con sông đầu tiên nào vắt ngang huyền thoại, làm thành cổ
mẫu Sông đầu tiên? Phải chăng đó là Sông Khàn-bến
Khạn (KHÔÔNG KHAN-PỆN KHẠN), trong huyền tích Mường mà Từ Chi đã phân
tích, mải mê và hứng thú? Nếu đúng vậy thì cổ mẫu Sông nguyên
khởi của mảnh đất này đã là chị em sinh đôi của nhiều cổ mẫu Sông của
các dân tộc khác. Đó là biểu tượng về một lằn ranh chia cách, làm thành
hai thế giới, là một trở ngại mà con người phải vượt qua: Trời và Đất,
dương gian và địa phủ. Bước sang bờ kia là một cuộc đời khác. Gắn liền với sông
suối là bến bờ, là con đò, là chiếc cầu. Lại có biểu tượng Bến Mê, cầu Nại Hà…
Lại có những khái niệm Hoàng tuyền, Suối vàng, sang ngang…
Có thể nói, cổ mẫu Sông gần như chiếm lĩnh trang
viết và khái niệm non sông gần như bình đẳng với khái
niệm đất nước và non nước về ý nghĩa: Non
sông một bức dư đồ rách (Tản Đà, Vịnh bức dư đồ rách). Sông để
lại dấu ấn đậm trong tâm thức người Việt đến mức có khi nó thay thế cả Biển trong
điển cố «bể dâu» («Thương hải biến vi tang điền»), để nói lên cảm thức về sự
biến dịch: Sông kia rày đã nên đồng/Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô
khoai/Đêm nghe tiếng ếch bên tai/Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi
đò (Trần Tế Xương, Sông Lấp). Biểu tượng sông
ở đây rất gợi, vì nó nói với ta về một cách nhìn mới : nhà thơ đã bước ra
ngoài thế giới công thức, khắc phục điển phạm, vốn đã mòn nhẵn.
Khi cuộc sống xã hội hình thành, phận người đã hiện, Sông là
hình ảnh bên cạnh người, dành cho người. Với người Thiếu phụ Nam Xương,
dòng sông trở nên «kỳ ảo», mượn cách nói của Đặng Anh Đào. Trong sự sóng đôi
với Lửa để làm nên Bóng, cổ mẫu Sông nước trong Thiếu
phụ Nam Xương đã được nâng lên một tầm cao mới lấp lánh tầng tầng ý
nghĩa. Nếu cái Bóng của ánh đèn đêm đêm, dù là được «nhân
hóa » bằng trí tưởng tượng khá lãng mạn của người vợ trẻ, vẫn là hình ảnh
lặp đi lặp lại, đơn điệu, đơn màu trên vách hẹp, thì cái Bóng trên
sông nước «kiệu hoa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông» thoáng qua, lộng lẫy, đa
màu, mênh mang… Dân gian nói với chúng ta rằng, đó là sự khác nhau vời vợi giữa
bóng người - cái làm ta ngộ nhận, và bóng thần - cái làm ta ngưỡng vọng: dòng
sông đã giúp người thiếu phụ Nam Xương tái sinh trong thế giới Huyền.
Sông trong Chử Đồng Tử là biểu
tượng của người chứng ân cần, gần như ông Tơ bà Nguyệt, run rủi cho
chàng trai nghèo mồ côi Chử Đồng Tử gặp được người con gái lá ngọc cành vàng
Tiên Dung. Sôngtrong thiên diễm tình này hiện lên với ba khuôn mặt:
Với dòng nước – cái chính, Sông là nơi kiếm sống và ẩn thân
của Chử Đồng Tử, là chốn rong chơi ngoạn du hồn nhiên của Tiên Dung; là bãi
sông - cái ngoài rìa, Sông là điểm hạnh ngộ trong tình huống
vừa oái oăm vừa kỳ ảo của đôi bạn trẻ. Điều đángnói là, sau khi chọn nhận nhau,
đôi uyên ương vượt chuẩn này đã không dừng lại với Sông mà tìm
đến vùng đồng lầy hẻo lánh, để tránh sự truy tìm của vua cha. Theo cách nói
thông thường, từ triết lý nhà Phật, Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã có
duyên với nhau (Hồ Xuân Hương, Có phải duyên nhau thì thắm lại),
còn cổ tích Trương Chi Mỵ Nương nói về sự lệch pha trong tình
yêu, bi kịch của ngộ nhận. Mỵ Nương là hình ảnh nhân vật nữ tương tư đầu tiên
của Việt Nam, chỉ vì yêu mà lâm bệnh. Hẳn rằng tiếng hát Trương Chi sẽ không
thể nào vang đến đôi tai tinh tế của Mỵ Nương và sẽ không dặt dìu, mênh mang
đến thế, nếu không có sóng gió của giòng sông đi ngang nhà nàng. Sông ở
đây vừa là chốn mưu sinh, vừa là nơi tiếng hát Trương Chi thăng hoa, vừa là nơi
kết thúc cuộc đời của chàng dân chài bất hạnh, và là nơi lưu giữ hồn chàng, để
cuối cùng giúp cho khối tình u uẩn của chàng được hóa giải. Sông với
Mỵ Nương là biểu tượng của ảo ảnh, đánh thức tâm hồn lãng mạn, phơi
lộ khát vọng về cái Tuyệt đối, và hé mở trái tim trắc ẩn của nàng. Dòng sông
và tiếng hát Trương Chi vang vọng lại nhiều thế kỷ sau, qua văn chương và âm
nhạc, trong tinh thần liên văn bản. Từ không gian cổ tích, cổ mẫu sông hóa
thân nhiều lần, theo quy luật tương đồng hoặc nghịch biến. Các nhạc phẩm thường
nương theo liên tưởng tương đồng:Trương Chicủa Văn
Cao. Khối tình Trương Chi của Phạm
Duy, Chuyện tình Trương Chi, Mỵ Nương của Anh
Bằng, Hận Trương Chi của Hùng
Lân… Nhưng một số tác phẩm văn học lại làm mới cổ mẫu sông
và biểu tượng Trương Chi theo quy luật nghịch biến.
Nguyễn Huy Thiệp thể hiện rõ nhất điều này: Mở đầu truyện ngắn của
mình, ông đã trần tục hóa nhân vật Trương Chi, và tầm thường hóa dòng sông:
“Trương Chi đứng ở đầu mũi thuyền. Chàng trật quần đái vọt xuống dòng sông”,
“Chàng nhổ mẩu ngón tay xuống giòng sông. Trời tối, không thấy máu. Chàng thò
tay xuống dòng nước xiết. Dòng nước mơn man khiến chàng dễ chịu. Chàng duỗi
chân, ngả người vào lòng thuyền. Chàng nói: -Cứt!”. Nguyễn Huy Thiệp không thi
vị hóa bất kỳ điều gì, từ con người đến dòng sông, tất thảy đều trần trụi, một
hiện thực sỗ sàng, sần sùi, khước từ tô vẽ. Nhưng ông cho thấy trong tận đáy
hồn Trương Chi cuồn cuộn một cơn sóng mới, là sự tỉnh thức đáng sợ:
Chàng sống giữa bầy. Chàng cười nói. Chàng chịu đựng. Chàng mua
bán. Chàng chấp nhận. Mọi ước lệ của thói đời lướt qua chàng không dấu vết.
Chàng cũng lướt qua nó, những ước lệ của thói đời ấy không dấu vết. Giờ đây,
gặp Mỵ Nương rồi, chàng hiểu chắc chắn rằng cuộc sống của chàng thật là cứt, là
cứt chó, không sao ngửi được. Không phải chỉ riêng chàng, mà cả bầy. Tất cả đều
thối hoắc.
Trạng thái tỉnh thức ấy trong nhân vật Trương Chi đã nhanh chóng
chuyển sang cảm giác trống rỗng của trái tim chạm đến hư vô và vì vậy tất cả
nhòa đi, cả Mỵ Nương, cả dòng sông, cả bầu trời, chỉ còn lại một màu trắng
xóa. Sông, bây giờ là huyệt mộ, cái xoáy nước, hốc đen bí mật, vùi Trương Chi
vô tăm tích, trong khi lời văng tục cuối cùng của chàng còn dội lại trên sóng:
Trương Chi im bặt. Chàng cũng không biết chàng đã bay tới
bến sông từ khi nào nữa. Hình ảnh Mỵ Nương biến mất đâu rồi, trước mặt chàng là
sông nước trắng xoá một màu, trời mây trắng xóa một màu.Trương Chi chèo thuyền
ra giữa tim sông. Chàng lại nói: -Cứt!. Chàng từ trên thuyền bước xuống xoáy
nước giữa sông. Ở trên trời, trên mặt đất, trên biển cả và các dòng sông đều có
những hốc đen bí mật. Những xoáy nước trên sông là những hốc đen như thế [43].
Với Nguyễn Huy Thiệp, sông là một cổ mẫu đa sắc. Lúc thì gần gũi
và dung dị, mang tâm hồn người:
Con sông bến nước mơ màng và buồn cô liêu, nửa như chờ đợi nửa như
hờn dỗi (…) Nước lờ lững trôi, giữa tim dòng sông rạch một mũi sóng dập
dồn, ở đầu mũi sóng có một điểm đen tựa như mũi giáo (...) Con sông tựa như
giật mình phút chốc sau đó lại lặng im trôi, giống như một người hiểu biết tất
cả nhưng đang mải mê suy nghĩ, chẳng cần mà cũng chẳng thèm biết đến xung
quanh chộn rộn những gì [44].
Lúc lại là thế giới huyền: «Con trâu đen ở khúc sông này». Nhưng
trở đi trở lại trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, sông như là biểu tượng của
thử thách, của một nơi mà con người đi qua và phơi bày bản ngã của mình. Lúc ấy
những cái vỏ mà xã hội mặc cho đều rơi xuống, bất ngờ: « Nước bao giờ cũng
xiết », “Chảy đi sông ơi/ Băn khoăn làm gì/ Rồi sông đãi hết/ Anh hùng còn
chi” (Sang sông, Thiên văn). Dễ nhận ra Nguyễn Huy Thiệp chịu ơn nhiều
cổ mẫu sông của kinh sách nhà Phật, nhưng ông cố tình chọn cách biểu hiện thô
tháp, gằn hắt, thậm chí dung tục, để khía vào tâm thức người đọc những vết sướt
xót đắng về những lẫn lộn, nhộn nhạo, dơ dáng, nhếch nhác của kiếp người.
Cổ mẫu Đầm xuất
hiện, như một phép lạ: Đầm Dạ Trạch trong truyện Chử Đồng Tử. Phải
chăng ba yếu tố: Thiên (thời - chiếc gậy và cái nón lá của vị
tiên) Địa (lợi - cái đầm) Nhân (hòa - tình
yêu của đôi trẻ) - nguồn gốc của sự cường thịnh- đã hội tụ vào thời khắc ấy,
giúp cho Chử Đồng Tử và Tiên Dung làm nên việc lớn? Truyền thuyết nói rằng,
trong một đêm, đầm lầy ẩm ướt hoang vu biến thành làng mạc đông vui, sung túc.
Biểu tượng Đầm trong truyện Chử Đồng Tử mang rõ
quan niệm Châu Á. Nếu Châu Âu xem Đầm là biểu tượng của trạng thái tù đọng, bất
động, lười biếng thì Châu Á nhìn thấy Đầm như là biểu tượng của trạng
thái «hòa hợp và thoả mãn, nguồn gốc của cường thịnh» và là « trung
tâm tinh thần» [45]. Và bởi là hình ảnh của cái phi
thường, đã đạt đến độ viên mãn, như Thánh Gióng, vợ chồng Chử Đồng Tử và Tiên
Dung cũng bay về trời. Chỉ riêng motif bay về trời, như một kết
thúc có hậu này, cũng mang tính đa nghĩa, mời gọi ta phán đoán.
Cổ mẫu Giếngkhá đậm nét trong văn chương Việt Nam, cũng gần với thế giới về ý
nghĩa. Đó có thể là «con đường liên thông của sự sống» hay
là nơi che giấu bí mật: giếng của Tấm với con cá bống thần kỳ, (Tấm Cám).
Giếng cũng là nơi kết thúc và tái sinh: Giếng Trọng Thủy (Mỵ Châu - Trọng
Thủy) giếng của Hàn Mặc Tử (Trăng tự tử). Đặc biệt, Hồ Xuân Hương
đã mang đến một cách nhìn mới về Giếng, sẽ được nói trong phần sau.
Nếu Trần Dần chọn hình thái nước vô hình, và hiện đại hóa cổ mẫu
Mưa, Sương thì Hồ Xuân Hương mải mê thể hiện các hình thái nước hữu hình, và đã
kịp bổ sung vào hệ hình cổ mẫu này những “nhân vật” mới, vốn bị xem là nhỏ
nhoi, và làm cho người đọc bất ngờ, vì tính lạ thường của chúng. Câu hỏi nằm
trong phạm vi quan tâm của chúng ta: Vì sao với Nước, Hồ Xuân Hương
lại chỉ có cảm hứng với những nước trong hang, hẻm, kẽ, khe, lách, lạch,
nước tát, vũng… nghĩa là những hình thái Nước tù đọng, trong quy mô nhỏ,
hẹp, ở những vị trí khuất nẻo, hóc hiểm, như thế? Trước khi trả lời câu hỏi
này, có lẽ cần nói về Giếng, tiếp cái mạch vừa khơi trên.
Trong ý niệm nhân loại, từ Đông sang Tây, Giếng bao giờ cũng là
biểu tượng thiêng liêng. Vậy mà, Hồ Xuân Hương đã tục hóa biểu tượng này, làm
thành một cổ mẫu Giếng của riêng bà:
Ngõ
sâu thăm thẳm tới nhà ông.
Giếng ấy thanh tân, giếng lạ lùng.
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông!
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá
giếc le te lách giữa dòng.
Giếng ấy thanh tân ai đã biết?
Đố ai dám thả nạ rồng rồng
(Giếng nước)
Nói là Giếng của riêng Hồ Xuân Hương, nhưng rõ ràng nữ thi sĩ
không sáng tạo theo kiểu “vẽ chân cho rắn”: bài thơ mang lại cho người đọc Việt
Nam một hình ảnh rất quen thuộc về Giếng - hữu hình đã từng có ở miền quê, trên
từng chi tiết nhỏ: ngõ sâu, cầu trắng, nước trong, cỏ gà, cá giếc, nạ
rồng rồng… Vậy thì, bản thân cái Giếng Việt Nam này đã mang tính chất đời,
hay do cái nhìn suồng sã (vốn có với mọi thứ của Hồ Xuân Hương? Hãy chú ý những
định ngữ (tính từ, động từ) mang sắc thái chủ quan: phau phau, leo lẻo,
lún phún, le te… Hãy chú ý tới cụm từ giới thiệu nhân vật mang giới tính
“nhà ông” trong câu mở đầu, và lời thách đố của câu cuối: “Đố ai dám…”. Ngoài
cái “cầu trắng song song đôi ván ghép”, sản phẩm của con người, giếng nơi đây
gần như giữ toàn bộ cái vẻ thiên nhiên nguyên sơ của mình: chỉ cần một giòng
nước trong, và đó là tất cả. Cổ mẫu giếng của Hồ Xuân Hương chỉ cần cái lõi gốc
ấy thôi, mọi sự tô vẽ không cần thiết nữa. Vậy thì giếng thanh tân vẫn là giếng
cội nguồn, nhưng nó đã bước ra khỏi mọi màn sương huyền thoại. Trần trụi mà tồn
tại. Không những thế, từ cái thanh tân của nước, Hồ Xuân Hương liên tưởng đến
cái thanh tân của người. Từ đó, toàn bộ bài thơ tạo ra một hình ảnh kép, trùng
khít nhau, khiêu khích.
Hồ Xuân Hương có hai bài thơ viết về hang, trong không gian ấy,
nước ở trạng thái giọt, rỉ: Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn, Luồng gió
thông reo vỗ phập phòm. Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm. Con đường vô ngạn tối
om om (Hang Cắc Cớ); Lách khe nước rỉ, mó lam nham (Hang
Thanh Hóa). Dù vậy, nước vẫn gây ấn tượng, bởi cái thế chủ động của nó. Đặt
cổ mẫu nước trong hang, Hồ Xuân Hương đã chồng cổ mẫu lên cổ mẫu. Và cổ mẫu
hang là hình thái đất núi, khá đặc biệt trong tâm thức nhân loại: “Mẫu gốc của
hình ảnh tử cung người mẹ”; hình ảnh cõi trần”; “biểu tượng hoàn hảo về cái vô
thức”, “Hang biểu trưng cho sự thám hiểm cái tôi bên trong, đặc biệt hơn là cái
tôi thô sơ, bị nén ẩn dưới những tầng sâu vô thức”, “túi chứa đựng năng lượng
của cõi người, Hang “quá trình nội hoá tâm lý, để con người trở thành chính
mình và đạt được sự trưởng thành…”, “cái chủ quan trong cuộc đối đầu với những
vấn đề của sự phân hóa” [46]. Giọt nước trong hang chính là yếu tố
động của sức sống hiền minh, nhỏ nhoi, nép mình như trực giác, nối kết giữa vô
thức và ý thức.
Những hình thái nước còn lại trong thơ Hồ Xuân Hương cũng hiện lên
dưới sự quy chiếu qua hành động người, bằng cái nhìn nhạo báng: mưa thì tè,
nước thì đầy phè: Đang cơn nắng cực chửa mưa tè (…)Dang bang một
lúc đã đầy phè (Tát nước). Nước non, một khái niệm vốn vĩ đại
thiêng liêng, trong thơ Hồ Xuân Hương được thân mật hóa: Trơ cái hồng
nhan với nước non (Tự tình 1), Bảy nổi ba chìm với nước
non (Bánh trôi nước). Đặc biệt là, dù tồn
tại trong hình thái tù đọng, nhỏ bé, hóc hẻm, Nước của Hồ Xuân Hương luôn tỏa
ra sức sống của một động lực muốn vượt thoát.
Bằng cả một chuyên luận công phu và đặc sắc: Hồ Xuân
Hương, hoài niệm phồn thực, Đỗ Lai Thúy cũng đã góp phần lý giải thơ Hồ
Xuân Hương rất thuyết phục, với phê bình cổ mẫu: «những biểu tượng phồn thực
trong thơ Hồ Xuân Hương đều là những biểu tượng văn hoá-tôn giáo. Chúng là hiện
thân của những siêu mẫu», và «Hồ Xuân Hương, người đã biến tín ngưỡng phồn thực
thành triết lý phồn thực, biến những biểu tượng phồn thực
thành mỹ học phồn thực và đưa tính dục ở trình độ dân gian
thành văn hóa tính dục» [47]. Đúng vậy. Vực dậy từ vô thức tập thể
những kinh nghiệm nguyên sơ nhất về Nước, cái nhìn và bút pháp của Hồ Xuân
Hương đôi chỗ có cái gì đó gần với Bùi Giáng, một nhà thơ hiện đại. Nhưng có
thể nói như thế này chăng: thơ Hồ Xuân Hương ngả về bản năng, thơ Bùi Giáng
thiên về bản nhiên. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, ta chừng như thấy một người đàn bà
Việt nghịch ngợm tai quái vục chiếc gáo dừa vào cái lu vô thức nhân loại, quậy
chơi, và múc ra một hỗn hợp những Đất-Nước-Trời-Người, vung ra tung tóe. Trong
trò chơi này, thiên nhiên không còn là Mẹ Đất Cha Trời của con người, mà như
một người đàn ông bị lôi kéo vào cuộc chơi kỳ thú của người bạn nữ Việt thông
minh và tràn đầy sức sống.
Bùi Giáng cũng vực lại ký ức ngàn xưa, nhưng Nướccủa ông như là
một giấc mơ. Một giấc mơ siêu thăng, trong đó Thiên Nhiên và Con Ngườicùng
nương nhau tìm đến cái hạnh phúc uyên nguyên của Nhân loại trẻ thơ. Những trang
viết mê sảng như bị « thơ làm » của Bùi Giáng là mê cung, trong khi
những bài thơ của Hồ Xuân Hương là ván cờ gồm các nguyên tố Thiên - Địa - Nhân,
trong đó Nhân là con Tướng. Tôi nghĩ, cái dữ dội của thơ Hồ Xuân Hương là sự
tráo đổi vị trí đó. Nó đã thời sự hóa các cổ mẫu, như một kháng cự. Có lẽ,
thuở xưa, con người nhìn ngắm cách thiên nhiên yêu nhau mà bắt chước, hay là
thiên nhiên và con người cùng ngắm nhìn nhau, cùng bắt chước, Hồ Xuân Hương thì
ngược lại, vì vậy thơ bà hiện đại và Tây.
2.2.2. Đặc điểm cổ mẫu nước trong văn chương Việt Nam
2.2.2.1. Đặc điểm phái sinh: Có thể thấy, trong tác phẩm văn chương Việt Nam, nước xuất
hiện dưới hai dạng thức:
- một, nước như là một sự chuyển hoá khái niệm từ
một khái niệm chung, nói về thực thể tự nhiên mang tính cội nguồn, bao la và
thiết thân đối với vạn vật, nước trở thành một khái niệm chỉ một thực thể mang
tính quy ước về địa lý lãnh thổ. Cùng với đất, thành đất nước, đã đi vào thơ ca.
Nhiều bài thơ có tựa đề đất nước (Tạ Hữu Yên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa
Điềm…), trong dạng này, nước là một biểu tượng hữu thức, có cội nguồn từ
vô thức tập thể.
- hai, nước thể hiện qua những dạng thức mà nó được
khuôn định. Có lẽ, đây không là những phái sinh của cổ mẫu nước, mà đây là
những biểu hiện khác nhau của nó, làm nên hệ hình cổ mẫu nước. G. Bachelard,
khi nghiên cứu về nước, ông chú ý nhiều trạng thái: luân chuyển hay tù đọng,
mãnh liệt hay êm ả, trong trẻo hay trầm đục, bề mặt hay bề sâu.
Khi nghiên cứu nước trong văn chương Việt Nam, chúng tôi thấy đa
phần nước luôn xuất hiện dưới một dạng thức cụ thể. Có thể nói tư duy về nước
của người Việt là tư duy cụ thể, từ một trải nghiệm, trước hết là bằng mắt, sau
đó đến các cảm quan khác, để rồi lắng đọng thành một nếp gấp tư duy. Và như
vậy, cái hình thức khuôn định này đôi khi lại quan trọng hơn là cái chất liệu
trong hình thức ấy. Nói cách khác, với người Việt, nước biển khác với nước
sông, nước mưa khác với nước sương nhiều lắm, cái cảm xúc, nỗi ám ảnh về nước
luôn tùy thuộc vào dáng vẻ xuất hiện của nó, cùng với không gian, thời gian, và
tâm trạng của người tiếp nhận.
2.2.2.2. Tính biểu tượng và hàm lượng biểu đạt ý nghĩa
Cảm thức và ý niệm về nước trong văn chương Việt có một sự vận động
rõ rệt. Các biểu tượng nước trong văn học truyền miệng được ghi nhận qua bút
pháp kể: nước hiện lên như là một sự kiện, nhưng là một sự kiện “đinh”, tạo ra
tình huống của toàn truyện. Cổ mẫu nước lúc bấy giờ cũng có thể được xem là
nhân vật chính của truyện: Huyền thoại Đẻ đất đẻ nước là như
vậy. Chỉ là sự kiện và là nhân vật, thông qua tương tác của hành động mà tạo
nên cốt truyện, không hề có cảm xúc. Các cổ mẫu như vậy chứa chất một sức nén
cao. Ý nghĩa của chúng ủ rất sâu, không lộ trên bề mặt như những nhân vật chức
năng khác.
Các biểu tượng nước trong văn học viết được miêu tả nhiều hơn và
đặc biệt, là sự tương tác hiển lộ qua tâm trạng tác giả hoặc nhân vật. Chất cảm
xúc như là ánh mặt trời làm cho các cổ mẫu xòe bung thành những bông hoa đa
hương sắc, hoa đã nở, nhụy đã phô, hương đã bay: cổ mẫu được phơi bày nhiều nên
cũng sẽ chóng phai. Hơn nữa, trong tâm thức của con người hiện đại, với quan
niệm con người là chúa tể của vũ trụ, nước, là thành tố của thiên nhiên, thường
trở thành đường viền cho cuộc sống con người, nước khi ấy không còn là nhân
vật, mà là không gian, là cái cho ta, hơn là vật tự nó.
Nếu trước đây, thời Ngày xưa, khi rừng mây u ám Sông núi
còn vàng um tiếng thần (Nguyễn Nhược Pháp, Sơn Tinh Thủy Tinh)
Nước là nhân vật có mặt cùng với người trong tác phẩm văn chương như một logic
bình thường, thì sau nàyNước chỉ xuất hiện với tư cách là cổ mẫu, với những tâm
hồn nghệ sĩ chống lại cái logic bình thường của thời đại. Chính xác hơn là họ
chống lại cái quan niệm cho rằng xã hội loài người là tất cả, cái văn minh của
loài người cao hơn cái trật tự của vũ trụ. Trong tác phẩm của những người nghệ
sĩ này, cổ mẫu Nước không là phương tiện mà là một thành tố trong tư duy nghệ
thuật, được thể hiện qua tác phẩm văn chương. Nói khác đi, trong tất cả những
tác phẩm được phân tích trên đây,nước là một nhân vật văn chương và
là nhân vật chính trong hệ thống nhân vật của tác phẩm. Nếu thiếu Nước, tác
phẩm không có cơ tồn tại. Tuy vậy, khác với những nhân vật-người vốn phổ biến,
thường mở ra cánh cửa bước vào xã hội; nhân vật - Nước, vốn đặc biệt, thường mở
ra cánh cửa bước vào thiên nhiên. Cổ mẫu nước xuất hiện trong tác phẩm như
những hạt kim cương, lấp lánh nhiều giác độ và sắc màu khác nhau của văn
chương, văn hóa, triết học. Cổ mẫu nước như vậy đã làm nên độ sâu, độ vang ngân
của tác phẩm. Nó là sự hun đúc và chưng cất tinh khí của vũ trụ. Nó còn nói lên
sự tỉnh thức và kháng cự của con người trước nguy cơ khô cằn vì nền
văn minh cơ giới.
3. Kết luận
Những khảo sát trên cho phép bài viết đưa ra những kết luận về cổ
mẫu Nước trong văn chương Việt Nam và triển vọng của phê bình cổ mẫu ở Việt
Nam. Huyền thoại Việt Nam không nhiều lắm, «không thành hệ thống », mà
«rớt từng mảnh ở truyền thuyết và cổ tích» [48]. Đó là ý kiến đã được thừa nhận và
người ta cũng đã ít nhiều cắt nghĩa hiện tượng này. Tuy nhiên với cách đọc cổ
mẫu, qua những gì đã khảo sát và phân tích về cổ mẫu nước trong văn chương,
chúng tôi nhận ra rằng sự ít ỏi và phân mảnhnơi huyền thoại,nếu có, cũng
đã không làm hạn chế ý nghĩa của vấn đề.
Bất chấp những cay đắng của số phận cộng đồng, những bể dâu của
lịch sử, cuộc hành trình tâm linh của Người Việt vẫn không ngừng hướng về phía
trước, vừa lắng nghe bản thân mình, vừa kết nối với nhân loại. Văn chương đã là
nơi lưu giữ những dấu vết của hành trình ấy, qua các cổ mẫu. Các cổ mẫu Nước
của Việt Nam, ngay từ khởi nguyên cho đến hiện tại, vừa mang những nét chung
của nhân loại trên phương diện loại hình, tính chất, vừa có những bồi đắp riêng
về sắc thái, biểu hiện. Điều đặc biệt là, giữ được bản chất đa âm của mình,
cộng với tư duy lưỡng hợp của triết học Phương Đông nơi người Việt, các cổ mẫu
Việt Nam có vai trò rất lớn trong việc chuyên chở những suy tư, cảm thức, khát
vọng, mặc cảm… của người Việt từ thời cổ sơ cho đến hiện tại. Qua Nước, có thể
nói cổ mẫu tự nhiên để lại dấu vết đậm đà trong văn chương Việt Nam. Ở đó, chứa
chan những Nước, nước từ trời và nước của lục địa nhiều hơn là nước của đại
dương. Quay lưng lại với Biển, người Việt e ngại một cái gì bấp bênh, hai mặt,
hoài nghi, dữ dội và giàu kịch tính? Yêu Nước có phảidân tộc
này thích «hướng tới dạng thức cao thượng nhất đó là lòng nhân từ» [49]? Những chọn lựa vô thức như vậy
phải chăng bắt nguồn từ những «vết hằn» trong tâm thức người Việt xưa, hay từ
một mặc cảm nào đó mà hoàn cảnh lịch sử để lại? Cũng có thể là phong cách
của một dân tộc «soi mặt dưới ruộng, phơi lưng với trời», phải luôn chống chọi
với thiên tai địch họa?
Câu nói của Đặng Anh Đào về huyền thoại trên đây, cũng có thể dùng
cho triết học. Không hệ thống mà phân mảnh và náu mình sâu trong văn chương
nghệ thuật, triết học ở Việt Nam lấp lánh qua cổ mẫu, qua những biểu tượng nghệ
thuật lớn. Người Việt sống với hơn là nghĩ về triết
học. Hàn Mặc Tử thông tuệ của chúng ta đã nói điều này: «Triết lý là vun
trồng, nuôi nấng thi văn, mà thi văn là để bắt nghĩa ra triết lý» (Chơi giữa
mùa trăng). Cổ mẫu từ huyền thoại, như phấn thông vàng, một chiều ngả gió,
đã bay đầy không gian văn học và kết nên quả mới. Từ đó, văn học hiện đại Việt
Nam đã được tiếp sức từ văn học dân gian, và văn học nước ngoài, cả về phương
diện tư tưởng, lẫn phương diện cấu trúc. Nhận thức rõ điều này, cũng có nghĩa
là thấy được mối liên lạc giữa xưa và nay, giữa Đông và Tây, thoát được cái
nhìn phân lập cực đoan giữa cũ và mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa Đông
và Tây, trong văn học; đồng thời thấy được những đóng góp quan trọng của Văn
học So sánh và Phê bình liên văn bản.
Các cổ mẫu Nước trong tác phẩm văn chương Việt Nam đã tồn tại
trong tính đa chiều của không gian-thời gian và là một vũ trụ vi mô toàn vẹn,
có khả năng cung cấp đồng thời các ý nghĩa về các cấp độ của thực tại. Chúng đã
giúp ta khám phá những vùng bí ẩn trong thế giới văn chương và không gian văn
hóa người Việt. Từ tính chất của cổ mẫu, tham khảo quan niệm của C. G. Jung về
hai dạng thức của tác phẩm nghệ thuật (hướng nội và hướng
ngoại), có thể bước đầu nhận dạng hướng đi của văn học Việt Nam: Đặc trưng
của kiểu hướng nội là sự khẳng định của chủ thể với những ý định và mục đích có
suy tính của nó, chống lại những lực kéo của đối tượng (ví dụ Schiller); kiểu
hướng ngoại thì ngược lại, được đặc trưng bởi sự khuất phục của chủ thể trước
những yêu cầu của đối tượng (ví dụ Goethe). Văn học Việt Nam cả thế kỷ qua
phải chăng là thiên về dạng thức thứ nhất ? Và bây giờ cần bổ sung dạng
thức thứ hai? Ngay với dạng thức «hướng ngoại» này, nếu chỉ quan niệm «sự khuất
phục của chủ thể trước những yêu cầu của đối tượng» như là chủ nghĩa hiện thực
chân chính của Lev Tolstoϊ, của Honoré de Balzac… thì có lẽ vẫn chưa đầy đủ,
nhất là khi ta đã trở lại ngàn xưa, đã chạm đến cổ mẫu và đã ướm thử tinh thần
hậu hiện đại. Một câu dẫn của Tầm Dương khi viết về Tản Đà, rất đáng cho chúng
ta suy nghĩ: “... thi sĩ (nghệ sĩ nói chung) nên quan niệm đối tượng đối thoại
của mình không chỉ là những thực thể “nhân nhân tương dữ” mà còn là những thực
thể “thiên nhân tương dữ” [50].
Chúng ta đang ở trong thế kỷ XXI, và bước vào thời kỳ hậu hiện
đại. Có vẻ như cái gì thuộc về thế kỷ XX, nghĩa là thuộc về thời kỳ hiện
đại, đã là quá khứ, đã bớt sang và không mode ? Phê bình cổ
mẫu, «cũ người mới ta», theo tôi vẫn là một xu hướng tiếp cận còn sức sống. Nó
có thể vừa giúp cho người nghiên cứu hiểu sâu hơn về tác phẩm, đoán định được
sự vận động của văn chương trên cái nhìn đa giác: tâm lý, văn hóa, nhân
học... ; vừa sẽ góp phần khuyến khích người cầm bút và công chúng Việt Nam
nuôi lại cái khát vọng “nối liền xưa và nay”; giúp họ bớt đi quán tính viết và
đọc văn chương theo kiểu áp sát đời sống tư tưởng; tăng cường tính đa âm trong
cách viết và sức mạnh tưởng tượng trong sáng tạo, từ một nguồn lực văn hóa
vững bền. Hơn nữa, theo N. Frye, «huyền thoại dẫu là ngôn từ thi ca thì vẫn nằm
trong Logos, bởi vì nó là trật tự của Văn hóa chứ không phải là trật tự của
Thiên nhiên. Trong ý nghĩa này, nghiên cứu những huyền thoại, chính là để nhà
so sánh bắt đầu tiếp cận vấn đề thi học ở mức cao nhất: viết là
gì ? » [51]. Ngoài ra, khi phát hiện ra những đặc
điểm nhân loại và dân tộc trong văn chương, phê bình cổ mẫu cũng sẽ là nhịp cầu
nối liền văn học Việt Nam và văn học thế giới. Điều đáng tiếc là hiện nay phê
bình cổ mẫu vẫn còn khá xa lạ với văn học Việt Nam. Hy vọng rằng chẳng bao lâu
nữa, nó sẽ nhận được sự quan tâm và đầu tư thích đáng của giới làm văn học và
văn hóa, trên các phương diện dịch thuật, nghiên cứu, phê bình, giảng dạy.
Chú thích:
[1] Frazer, J.G. (1854-1941): nhà Nhân
học người Anh, có nhiều đóng góp cho huyền thoại học và tôn giáo so sánh. Tác
phẩm nổi tiếng nhất của ông là The Golden Bough (1890),
được dịch sang tiếng Việt làCành vàng (2007. Dịch giả: Ngô Bình
Lâm. Hà Nội: Nxb Văn hóa thông tin & Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật).
[2] Jung, C.G. (1875-1961); nhà phân
tâm học người Thụy Sĩ, đã mở ra hướng mới cho phân tâm học, sau S. Freud, và
khai sinh Cổ mẫu. Các công trình chính: L’analyse des rêves [Phân
tích những giấc mơ, 1928-1929], Dialectique de moi et de
l’inconscient [Biện chứng của cái tôi và vô thức, 1933], L’Homme
à la découverte de son âme [Con người trên đường khám phá tâm hồn
mình, 1963], L’Homme et ses symboles [Con người và các biểu tượng,
1964].
[3] C.G. Jung. “Bí ẩn của những siêu
mẫu” (Ngân Xuyên dịch) trong S. Freud – C.G. Jung – G. Bachelard – G. Tucci –
V. Dunde. 2000. Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (nhiều
người dịch). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 84.
[4] Bodkin, A. M. (1875-1967): nhà
nghiên cứu phê bình văn học người Anh, chuyên về huyền thoại học. Tác phẩm
chính: Archetypal Patterns in Poetry: Psychological Studies of
Imagination [Những dạng cổ mẫu trong thơ: Nghiên cứu phân tâm học về
trí tưởng tượng, 1934]. Công trình này áp dụng lý thuyết cổ mẫu của C.G Jung
vào văn học và được xem là công trình đầu tiên về nghiên cứu cổ mẫu.
[5] Bachelard, G. (1884-1962): triết
gia Pháp, chuyên nghiên cứu về tưởng tượng. Các tác phẩm liên quan: La
Psychanalyse de feu [Phân tâm học về lửa, 1938], L’eau et
les rêves [Nước và những giấc mơ, 1942], La póetique de la
rêverie [Thi pháp của mộng mơ, 1960].
[6] Frye, H. N. (1912-1991): nhà phê
bình văn học người Canada. Công trình nổi tiếng của ông làAnatomy of
Critism [Giải phẫu phê bình, 1957].
[7] Trong tài liệu tiếng Việt, archetype (archétype)
thường được dịch thành cổ mẫu, mẫu gốc, nguyên tượng, nguyên mẫu (theo nghĩa
mẫu nguyên thủy, giống như “nguyên tội”: tội lỗi nguyên thủy, tội tổ tông).
Người viết chọn cách gọi “cổ mẫu”, vì cho rằng khái niệm này có giá trị khu
biệt rõ, lại mang sắc thái học thuật.
[8] Freud, S. (1856-1939): nhà phân
tâm học người Áo, sáng lập ra trường phái Phân tâm học. Tác phẩm chính: L’Interprétation
des rêves [Giải thích những giấc mơ, 1899], Trois essais sur
la theorie sexuelle[Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục, 1905]
[9] Jung, C.G. “Bí ẩn của những
siêu mẫu” (Ngân Xuyên dịch) trong S. Freud – C.G. Jung – G. Bachelard – G.
Tucci – V. Dunde. 2000. Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (nhiều
người dịch). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 74-75.
[10] Bachelard, G. “Phân tâm học của
những siêu mẫu” (Ngô Bằng Lâm dịch) trong S. Freud – C.G. Jung – G. Bachelard –
G. Tucci – V. Dunde. 2000. Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (nhiều
người dịch). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 116,118.
[11] Jung, C.G. “Bí ẩn của những siêu
mẫu” (Ngân Xuyên dịch) trong S. Freud – C.G. Jung – G. Bachelard – G. Tucci –
V. Dunde. 2000. Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (nhiều
người dịch). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 77-78.
[12] Cách hiểu này chỉ giới hạn trong
phạm vi văn chương. Ba khái niệm này có nội hàm rộng hơn, tùy theo phạm vi mà
chúng tồn tại. Ngay trong phạm vi văn chương, người ta vẫn còn dùng không nhất
quán và lẫn lộn: hình ảnh/hình tượng; ẩn dụ (métaphore)/biểu tượng; biểu
tượng/cổ mẫu (siêu mẫu, nguyên tượng, nguyên mẫu).
[13] Jung, C.G. “Bí ẩn của những siêu
mẫu” (Ngân Xuyên dịch) trong S. Freud – C.G. Jung – G. Bachelard – G. Tucci –
V. Dunde. 2000. Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (nhiều
người dịch). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 79.
[14] Jung, J.G. 1964. L’Homme
et ses symboles [Con người và các biểu tượng]. Robert Laffont. 78-79.
[16] Jung, C.G. “Bí ẩn của những siêu
mẫu” (Ngân Xuyên dịch) trong S. Freud – C.G. Jung – G. Bachelard – G. Tucci –
V. Dunde. 2000. Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (nhiều
người dịch). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 81.
[17] Jung, C.G. “Bí ẩn của những siêu
mẫu” (Ngân Xuyên dịch) trong S. Freud – C.G. Jung – G. Bachelard – G. Tucci –
V. Dunde. 2000. Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (nhiều
người dịch). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 82.
[18] Jung, C.G. 1998. Sur
L’Interprétation des rêves [Về “Giải thích những giấc mơ”]. Albin
Michel. 120.
[19] Jung, C.G. 1964. L’Homme
et ses symboles [Con người và các biểu tượng]. Robert Laffont. 96.
[20] Bachelard, G. “Phân tâm học của
những siêu mẫu” (Ngô Bằng Lâm dịch) trong S. Freud – C.G. Jung – G. Bachelard –
G. Tucci – V. Dunde. 2000. Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (nhiều
người dịch). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 90-91.
[21] S. Freud – C.G. Jung – G.
Bachelard – G. Tucci – V. Dunde. 2000. Phân tâm học và văn hóa nghệ
thuật (nhiều người dịch). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 264.
[22] S. Freud – C.G. Jung – G.
Bachelard – G. Tucci – V. Dunde. 2000. Phân tâm học và văn hóa nghệ
thuật (nhiều người dịch). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 265-266.
[23] S. Freud – C.G. Jung – G.
Bachelard – G. Tucci – V. Dunde. 2000. Phân tâm học và văn hóa nghệ
thuật (nhiều người dịch). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 273.
[24] Poe, Edgar Allan (1809-1849): nhà
văn Mỹ, người mà theo G. Bachelard: “Giữa những nhà văn hiếm hoi đã sáng tạo
trong lằn ranh của mơ mòng và tỉnh thức, trong miền hỗn độn, nơi những giấc mơ
được nuôi dưỡng bằng các dạng thức và các sắc màu hiện thực, nơi thực tại thẩm
mỹ và bầu khí mơ mộng giao hòa nhau. Edgar Allan Poe là một trong những nhà văn
sâu sắc nhất và tài hoa nhất. Bằng giấc mơ sâu thẳm và cách kể chuyện tài hoa,
ông đã dung hợp trong tác phẩm của mình hai tính chất đối nghịch: nghệ thuật
của cái dị thường và nghệ thuật của cái giảm trừ” (Préface des Aventures
d’Arthur Gordon Pym [Lời tựa cho Những cuộc phiêu lưu của Arthur
Gordon Pym, 1944] tại http://fr.wikipedia.org/wiki/Edgar_Allan_Poe).
[25] Trích theo Từ điển Biểu
tượng Văn hóa thế giới.1997. Nxb. Đà Nẵng . XXIII.
[26]http://en.wikipedia.org/wiki/Archetypal_literary_criticism#Arguments
_about_the_Contemporary_Dilemma_wih_Frye.E2.80.99s_Archetypal_Literary_Criticism
[27]http://en.wikipedia.org/wiki/Archetypal_literary_criticism#Arguments
_about_the_Contemporary_Dilemma_wih_Frye.E2.80.99s_Archetypal_Literary_Criticism
[28] Từ điển Biểu tượng Văn hóa thế
giới. 1997. Nxb Đà Nẵng. XXIII.
[30] Ferenezi, Sandor (1873-1933): nhà
phân tâm học người Hungary. Tác phẩm chính: Development of
Psychoanalysis [Sự phát triển của Phân tâm học. 1986], Final
Contribution to the Problems & Methods of Psycho-Analysis [Những
đóng góp sau cùng cho các vấn đề và phương pháp của Phân tâm học, 1994].
[31] Theo Từ điển Biểu tượng
Văn hóa thế giới. 1997. Nxb Đà Nẵng. XXIV.
[32] Từ đây trở đi, các bài thơ của
Trần Dần đều trích theo Trần Dần thơ. 2007. Nhã Nam và Nxb Đà Nẵng.
[33] Từ điển Biểu tượng Văn hóa thế
giới. 1997. Nxb. Đà Nẵng. 841.
[34] Nguyễn Huy Thiệp. 1995. “Nguyễn
Thị Lộ”. Như những ngọn gió. Hà Nội: Nxb Văn học. 328.
[35] Nguyễn Huy Thiệp. 1995. “Mưa Nhã
Nam”. Như những ngọn gió. Hà Nội: Nxb Văn học. 415-417.
[36] Nguyễn Huy Thiệp. “Giọt
máu”. Như những ngọn gió. 1995. Hà Nội: Nxb Văn học. 179-180.
[37] Nguyễn Huy Thiệp. 1995. “Muối của
rừng”. Như những ngọn gió. Hà Nội: Nxb Văn học. 96, 108.
[38] Nguyễn Huy Thiệp. 1995. “Con gái
thủy thần”. Như những ngọn gió. Hà Nội: Nxb Văn học. 109.
[39] Nguyễn Hiến Lê. 2001. Các
cuộc đời ngoại hạng (tái bản). Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin.
121.
[40] Nguyễn Huy Thiệp. 1995. “Con gái
thủy thần”. Như những ngọn gió. Hà Nội: Nxb Văn học. 125.
[41] Võ Thị Hảo. Biển cứu rỗi.
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nqnmnmn31n343tq83a3q3m3237nvn&cochu=
[42] Từ điển Biểu tượng Văn hóa thế
giới1997. Nxb Đà Nẵng. 80..
[43] Nguyễn Huy Thiệp. 1995. “Trương
Chi”. Như những ngọn gió. Hà Nội: Nxb Văn học. 332, 341.
[44] Nguyễn Huy Thiệp. 1995. “Chảy đi
sông ơi”. Như những ngọn gió. Hà Nội: Nxb Văn học. 7-8.
[45] Từ điển Biểu tượng Văn hóa thế
giới. 1997. Nxb Đà Nẵng. 286.
[46] Như trên. 380, 381, 382, 384.
[47] Đỗ Lai Thúy. 1999. Hồ
Xuân Hương, hoài niệm phồn thực. Hà Nội: Nxb Văn hóa Thông tin. 111, 231.
[48] Đặng Anh Đào. 2001. “Từ nguyên
tắc đa âm tới một số hiện tượng văn học Việt Nam”. Tài năng và người
thưởng thức. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Văn nghệ. 154.
[49] Từ điển Biểu tượng Văn hóa thế
giới. 1997. Nxb Đà Nẵng. 548.
[50] Tầm Dương. 2003. Tản Đà –
khối mâu thuẫn lớn. Tp. Hồ Chí Minh: Nxb Văn nghệ. 347.
[51] Nhiều tác giả. 2007. Huyền
thoại và văn học. Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 25. (Nguyễn Thị
Thanh Xuân lược dịch Chương 6: Huyền thoại [Mythes]
trong Văn học Tổng quát và Văn học so sánh[La littérature
Générale et Comparée]. Daniel- Henri Pageaux.1994. Paris: Armand Colin)
Nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/phe-bi%CC%80nh-co%CC%89-ma%CC%83u-va%CC%80-co%CC%89-ma%CC%83u-nuo%CC%81c-trong-van-chuong-vie%CC%A3t-nam
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét