Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2014

Tản văn Trung Quốc thế kỉ mới

                  
Từ thập niên 90, sáng tác tản văn phát triển mạnh mẽ. Đến thế kỉ mới, đội ngũ sáng tác tản văn ngày càng đông, thể hiện ở sự tăng lên của số lượng tác giả và sự hỗn tạp của thân phận người viết. Tập thể nhà văn trong lĩnh vực này ở thế kỉ mới bao gồm những người viết tản văn nữ đã từng xuất hiện vô cùng rầm rộ từ những năm 90, như Tư Dư, Hàn Tiểu Huệ, Phùng Thu Tử, Vương Anh Kì, Chu Bội Hồng, Tố Tố…; các nhà văn chuyển từ sáng tác thơ ca, nghiên cứu lí luận…chuyển sang sáng tác tản văn, như Vương Mông, Lý Quốc Văn, Trương Khiết, Giả Bình Ao, Trương Thừa Chí, Vương An Ức, Dư Thu Vũ, Lôi Đạt, Nam Phàm. Tiểu thuyết gia viết tản văn không phải là điều lạ lẫm, đến thế kỉ mới hầu hết các tiểu thuyết gia đều xuất bản tuyển tập tản văn của mình. Viết tản văn với một số nhà văn chẳng qua là hoạt động nghiệp dư, nhưng đối với một số nhà văn khác lại là phương hướng sáng tác chủ yếu, như Trương Thừa Chí, Lý Tồn Bảo từ giữa thập niên 90 dường như bỏ không viết tiểu thuyêt, chủ yếu viết tản văn; học giả viết luận văn có ảnh hưởng tương đối lớn có Chu Kiến Quốc, Chu Học Cần, Lưu Tiểu Phong. Sáng tác tản văn của nhà khoa học Chiêm Khắc Minh, họa sĩ Ngô Quan Trung, lãnh đạo cấp cao Lương Hằng..cũng có ảnh hưởng không nhỏ. Gần dây nổi lên một số người viết tản văn trẻ có ý thức tìm tòi như Nam Phàm, Chu Hiểu Phong, ngoài ra còn có một số người viết mới xuất hiện trên mạng “tản văn mới” như Triều Dương, Phương Hi, Lưu Xuân, Độc Hóa…Những người viết tản văn nghiệp dư như biên tập phổ thông, nhà báo, học sinh, tri thức thành thị cũng gia nhập đội ngũ tản văn. Những năm gần đây, trong tuyển chọn tản văn hàng năm của các tạp chí, tản văn của họ chiếm tỉ lệ tương đối lớn. Từ góc độ tuổi tác, có thể thấy những người viết tản văn thế kỉ mới bao gồm nhiều thế hệ, ngoài đông đảo nhà văn trẻ, những nhà văn lão thành như Lý Tiễn Lâm, Dương Giáng…vẫn nhiệt tình sáng tác, những nhà văn tuổi ngoài 60 như Tôn Phác, Lâm Cân Lan, Lý Quốc Văn cũng mang lại những đóng góp lớn, những chủ lực trong sáng tác tản văn đương đại như Sử Thiết Sinh, Trương Thừa Chí, Hàn Thiếu Công nhuệ khí vẫn không giảm.
Sự hưng thịnh của tản văn thế kỉ mới không tách rời không gian đăng tải rộng lớn. Trước hết là những tạp chí chuyên đăng tải tản văn, có 8 tạp chí chủ yếu như Tản văn, Tản văn hải ngoại bản ở Thiên Tân, Mĩ văn ở Tây An, Tạp chí tuyển chọn tản văn ở Trịnh Châu, Tản văn Trung Hoa ở Bắc Kinh…; tiếp nữa là những bản tản văn của các tạp chí văn học, như những chuyên mục tản văn của tạp chí Thu hoạch, Chung sơn, Văn học nhân dân…; rồi những phụ san văn học của các tờ báo…Gần đây, trung tâm đăng tải tản văn càng ngày càng hướng tới phụ san văn nghệ của các tạp chí loại hình tiêu dùng, đời sống và các tờ báo, rất nhiều nhà văn nổi tiếng mở chuyên mục tản văn trên các phụ san; báo chí cũng mượn điều đó để tạo nên nhà văn của những chuyên mục mới, trở thành điểm thu hút của các tờ báo.Internet, truyền hình cũng có vai trò nhất định trong việc thúc đẩy sự phồn vinh của tản văn, chẳng hạn như tiết mục “Tản văn thi ca truyền hình”… Những tiểu phẩm đô thị được đăng trên Internet, báo thành thị, báo kinh tế, tạp chí hàng tuần đô thị, tạp chí thời thượng  trở thành “tản văn truyền thông mới”. Xuất bản tản văn cũng rất hưng thịnh. Tuyển tập tản văn của những nhà văn hiện đại nổi tiếng như Chu Tác Nhân, Lương Thực Thu, Lâm Ngữ Đường, Lỗ Tấn, Thẩm Tùng Văn liên tục được tái bản, tản văn của Dư Thu Vũ, Lưu Đường, Chu Quốc Bình bán khá chạy trong nhiều năm, các loại tản văn, tùy bút tràn ngập thị trường sách.
Sự phồn vinh của tản văn thế kỉ mới có quan hệ mật thiết với bối cảnh thời đại, và cũng gắn liền với đặc trưng vốn có của tản văn. Tản văn khi viết rất linh hoạt, có thể ngắn, có thế dài, hoặc tự sự, hoặc trữ tình, hoặc du kí hoặc cảm hoài, hoặc bàn thời sự chính trị hoặc bàn chuyện gia đình, hoặc bàn đạo lí lớn văn hóa hoặc cảm ngộ những việc nhỏ trong cuộc sống. Những bài văn ngắn, có tính tri thức, hứng thú, tình cảm trên phụ san báo chí đâu đâu cũng có, trở thành cục nam châm thu hút độc giả. Sự phát triển nhanh của xã hội đương đại khiến tiết tấu của cuộc sống tăng nhanh, đối với nhà văn, khi không có thời gian tập trung viết tác phẩm dài, khoảnh khắc rung động, một chút cảm ngộ là chất liệu tuyệt vời cho tản văn. Những nhà văn thành danh ở thập niên 80, từ thập niên 90 trở lại đã bước vào trạng thái viết của tuổi trung niên, tích lũy đời sống phong phú và kinh nghiệm sống đầy đủ, mà tản văn lại rất cần sự tu dưỡng, học vấn, tình cảm, kinh nghiệm. Đối với rất nhiều học giả, nhà nghệ thuật, thời gian ngoài nghiên cứu chuyên môn, viết tản văn là phương thức tốt để họ hồi tưởng, thể hiện chân tình, sự quan tâm đến xã hội.
Về tổng thể, tản văn thế kỉ mới có ba khuynh hướng đề tài lớn
1. Hoài cựu và kí ức. Tản văn thường kết hợp chặt chẽ giữa trần thuật sự kiện và bộc lộ tình cảm, tản văn hay là sự chân thành, sinh động, triết lí, là yêu cầu rất cao đối với tri thức tu dưỡng và nhân cách của người viết. Kí ức và ấn tượng là tác phẩm hồi ức về cha mẹ của Sử Thiết Sinh, cuộc sống thời trẻ của cha mẹ, tình yêu của cha mẹ đối với nhà văn trở thành kí ức không thể nào quên của tác giả. Thẩm Tùng Văn ngày thường của Hoàng Vĩnh Ngọc đã miêu tả Thẩm Tùng Văn từ góc độ đời sống thường nhật, ông tài hoa, cốt cách cao ngạo nhưng cuộc sống lận đận. Bắc Đảo - Thi nhân nhiều năm phiêu bạt ở hải ngoại mang đến cho độc giả cuốn Tản văn Bắc Đảo: sách của sự thất bại, trong sách tràn ngập cảm giác phiêu bạt và sắc thái tang thương của những trải nghiệm cuộc sống. Trong tản văn chúng ta không thấy hình tượng thi nhân phẫn nộ, cái mà chúng ta đọc được là những phiến đoạn của cuộc sống mà tác giả trải qua khi ở nước ngoài. ..
2. Trầm từ và lí tưởng. Thập niên 90 của thế kỉ 20, dưới sự tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường, quan niệm đạo đức truyền thống bị tấn công mãnh liệt, nhà văn dùng góc độ nhân văn để nhìn hiện thực Trung Quốc, truy vấn lịch sử, quan tâm hoàn cảnh sinh tồn của nhân loại, tìm kiếm giá trị và ý nghĩa sinh tồn của con người, do đó đã sáng tác ra một loạt tác phẩm tản văn lí tính, khí thế mạnh mẽ, nội dung sâu sắc. Sang thế kỉ mới, hứng thú đọc của độc giả phát sinh biến đổi lớn, số lượng tản văn dung lượng lớn về văn hóa giảm đi, nhưng Trương Thừa Chí, Chu Đào, Chiêm Khắc Minh… vẫn thỉnh thoảng sáng tác những tác phẩm sâu lắng, giàu khí khái lớn lao, ví dụ như Một vùng sơn hà của Trương Thừa Chí thể hiện tinh thần say mê tìm kiếm tinh thần văn hóa khu vực trong những quần thể dân tộc thiểu số, làm sáng lên ánh hào quang của tinh thần nhân văn.
3. Tình thân và cảm hoài. Tình cảm gia đình, tình cảm bạn bè, tình yêu… luôn chiếm tỉ lệ lớn trong tản v ăn. Gần đây, tản văn ưu tú loại này rất nhiều, như 38 bông hoa sen, Nhớ cha mẹ của Diêm Liên Khoa, Hồi ức về cha mẹ của Lý Hán Vinh, Mẹ của Tôn Tôn…Tản văn mạng là điểm sáng trong sáng tác tản văn những năm gần đây, một số bài đã được các tạp chí in lại, như Nhớ vợ của tôi của Hồ Tử Long…
Sự phân loại ở trên chỉ là sự khái quát trên phương diện tổng thể, ngoài ra, vẫn còn một số đề tài khác, như những tác phẩm quan tâm đến tính khu vực của cuộc sống, tình cảm nhân dân. Tuyển tập tản văn của Giả Bình Ao thể hiện sự quan tâm, thấu hiểu sâu sắc của nhà văn đối với nông dân hương thôn, ở địa phương xinh đẹp và mang đầy ý vị thần bí, cha mẹ anh em cần cù, thuần phác, dũng cảm, trọng tình trọng nghĩa. Ngoài ra còn có tản văn thể hiện cuộc sống tình cảm của phụ nữ, như sáng tác của tiểu thuyết gia Thiết Ngưng, Triệu Mai và những nhà văn chuyên viết tản văn như Trương Lập Cần, Hàn Tiểu Huệ, Chu Hiểu Phong… Tác phẩm Điều kiện cần thiết của cao nhã của Chu Bội Hồng đã xuất phát từ việc “đọc” tranh, triển hiện nhiều mặt về cơ thể cũng như tình cảm, ái tình, cám dỗ, đau khổ… của phụ nữ.
Như trên cho thấy, tản văn thể kí mới gặt hái được thành công lớn, khi đối diện với sự phồn vinh của tản văn, tuy nhiên vẫn có những điểm còn hạn chế. Đội ngũ chủ lực của tản văn về cơ bản vẫn là những người đã sáng tác từ thập niên 90.  Tản văn phồn vinh, bán chạy, được tiếp nhận rộng rãi nhưng lại không có những đột phá cách tân trên phương diện hình thức. Dưới sự tác động của văn hóa đại chúng, trong tản văn thành phần vui chơi giải trí chiếm vị trí quá lớn, những tác phẩm thể hiện chiều sâu tư tưởng và sức tác động văn hóa còn ít, mất đi lập trường phê phán của phần tử trí thức, khiến tản văn biến thành một loại ăn nhanh thiếu mĩ cảm, thành văn bản thể hiện thứ tình cảm rẻ tiền, triết lí cơ hội, chủ nghĩa thực dụng, thiếu tinh thần trách nhiệm với xã hội, không nhìn thấy những vấn đề sâu của xã hội. Từ thập niên 90, nhà tiểu thuyết và nhà thơ trở thành chiến hữu trong viết tản văn. Họ có ưu thế trong tư duy hình thượng, tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ, hành văn bay bổng, có tác động tích cực đến sáng tác tản văn truyền thống. Nhưng có một số nhà văn hành văn phóng túng, tùy tiện sử dụng cách viết tiểu thuyết để viết tản văn, do đó đã phá vỡ những chuẩn mực cơ bản của tản văn. Như Mạc Ngôn tuy chưa đến nước Nga, nhưng ông đx dùng trí tưởng tượng của nhà tiểu thuyết viết Nước Nga tản kí, hoàn toàn không quan tâm đến tính chân thực của tản văn, coi tản văn cũng như tiểu thuyết, vì thế, gặp phải sự phản đổi của rất nhiều người.
Thanh âm của cách tân tản văn thế kỉ mới vẫn không ngừng vang vọng bên tai, ví dụ như Tủ sách hậu tản văn của Nxb Văn nghệ bách hoa, chuyên mục Làn sóng mới, website Tản văn mới của “Văn học nhân dân”, Tản văn mới của “Đại gia” và các tuyển tập “tản văn mới” đã giới thiệu hàng loạt người viết tản văn với một nhuệ khí mới, thể hiện khả năng đa dạng trong sáng tác tản văn. Điểm nổi bật của tản văn mới thể hiện ở chỗ phản đối theo đuổi tính chân thực tuyệt đối, nhấn mạnh nguyên tắc cơ bản của việc tuân thủ chân thực nghệ thuật của tản văn. Tản văn là nghệ thuật của “hồi ức”, là sự biểu hiện và tái hiện đối với con người và sự việc trong quá khứ. Cái đẹp của khoảng cách giữa “quá khứ” và “hiện tại” khiến hồi ức trở thành một kiểu nhìn giống như nhìn trong gương, mức độ chân thực trong hồi ức bị giảm đi khá nhiều. Trong khi đó, tản văn truyền thống vẫn yêu cầu chân thực 100%, quên mất rằng thông tin trong hồi ức được tạo nên từ việc liên kết kí hiệu ngôn ngữ - tính tùy ý và tính hư huyễn của kí hiệu ngôn ngữ rõ ràng không thể khiến hồi ức trở thành chân thực tuyệt đối, những đại diện của tản văn mới cho rằng không chỉ lịch sử và kí ức cá nhân không đáng tin, mà ngay cả cái “chân thực” trước mắt cũng cần phải hoài nghi. Những gì chúng ta có thể nhìn thấy chỉ là những ấn tượng tản mạn…Tản văn mới quá mức nhấn mạnh sự mới lạ về hình thức, chú trọng tìm kiếm những đột phá về hình thức.
Những người viết mới này phần lớn có trực giác nhạy bén, trí tưởng tượng phong phú, họ thử dùng văn bản cá tính độc đáo của mình tấn công dạng thức tản văn truyền thống. Sự tìm tòi tản văn của các nhà văn có nhuệ khí mới khiến cho khu vườn tản văn có thêm sinh khí mới, bất luận ở đề tài, thủ pháp hay là ngôn ngữ đều đã thể hiện thành tựu trong tìm tòi về tản văn. Ví dụ như Vằn lông – bản đồ trên da động vật của Chu Hiểu Phong đã miêu tả chi tiết các động vật trên mình có vằn lông, dùng phương thức ngụ ngôn để làm rõ mặt tương thông giữa động vật và con người. Cùng loại với tác phẩm đó còn có Chuyển mình, Phép trừ của Cách Trí, Cửa viện trong gió của Lưu Lượng Trình…
Vai trò thúc đẩy đổi mới nghệ thuật tản văn từ những tìm tòi nghệ thuật của “tản văn mới” vẫn cần phải đợi sự kiểm nghiệm của lịch sử. Như tác phẩm được hoan nghênh rộng rãi của Lưu Lượng Trình rất trong sáng và giàu ý thơ, nhưng lại thể hiện mãnh liệt tình cảm gắn kết với nông thôn, và tâm lí sợ hãi đối với thành thị, thiếu tinh thần bao dung đối với văn minh thương nghiệp hiện đại, thiếu tinh thần phê phán đối với văn hóa ở nông thôn. Tóm lại, “tản văn mới” chỉ là một cách viết được đề xuất mang tính khuynh hướng, đối với những người dồn sức sáng tác “tản văn mới”, sự tìm tòi của họ chưa hình thành được quan niệm riêng của mình về tản văn, sự lí giải của họ về tản văn không giống nhau, thậm chí cùng một nhà văn, cũng có lúc tự phủ nhận chính mình. So với sự hưng thịnh của tản văn đương đại, nghiên cứu về tản văn có phần trì trệ. Những bài viết mang tính lí luận của nghiên cứu tản văn tương đối ít, phần nhiều vẫn là những bài có tính chất điểm bình. Mọi người vẫn thỉnh thoảng nhấn mạnh mệnh đề cơ bản như: tản văn có “lối viết của tâm linh”, vẫn còn xoay quanh vấn đề cơ bản như ý thức thể loại của tản văn…
         
                    Đỗ Văn Hiểu
                                                                                        Hà Đông, 12-11-2013

Tổng hợp từ tư liệu tiếng Trung
Tài liệu tham khảo
1.      Vương Vạn Sâm… (chủ biên), 50 năm văn học đương đại Trung Quốc, Nxb Đại học Hải Dương Trung Quốc, 2006
2.      Trương Quốc Long, Phê phán hiện tượng tản văn Trung Quốc 2000-2010, Diễn đàn phương Nam, số 6 năm 2012
3.      Trần Lộc, Xây dựng phạm trù nghiên cứu tản văn thế kỉ mới, Diễn đàn phương Nam, số 2 năm 2013

4.      Lý Lâm Vinh, Tản văn thế kỉ mới: Khó khăn và đột phá đối của sự phát triển của tản văn thời đại truyền thông mới, Báo Văn ngh, 24-12-2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét