Thứ Năm, 5 tháng 3, 2015

PHÊ PHÁN ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA LÍ LUẬN CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI

Tác giả: Chu Lập Nguyên Sinh năm 1945, Giáo sư khoa Trung Văn Đại học Phúc Đán, Trung Quốc

Tóm tắt: Từ thời kì mới, trong quá trình dịch giới thiệu, nghiên cứu lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại phương Tây, giới lí luận văn nghệ Trung Quốc không tránh khỏi tiếp nhận nhiều ảnh hưởng phức tạp đan xen nhau, về đại thể, ảnh hưởng này có thể khái quát thành hai mặt tích cực và tiêu cực. Bài viết chủ yếu phê phán ảnh hưởng tiêu cực của lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại ở Trung Quốc, cụ thể là: triệt để phủ định đại tự sự dẫn đến xóa bỏ căn bản quan điểm duy vật lịch sử của mĩ học, văn nghệ học; tư tưởng chủ nghĩa phản bản chất của nó bị lí giải và sử dụng thái quá dễ dẫn đến triệt để xóa bỏ bản chất; cường điệu hóa chủ nghĩa phi lí tính, kích thích khuynh hướng tiêu cực của chủ nghĩa cảm quan trong lí luận và văn nghệ Trung Quốc; có khuynh hướng phản nhân đạo chủ nghĩa, phản nhân bản chủ nghĩa, không có lợi cho sự phát triển của sáng tác văn nghệ và lí luận; “phản đối diễn giải, có nghĩa là đi từ trung lập giá trị đến hư vô giá trị.

Việc truyền bá và tiếp nhận tư tưởng lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại phương Tây ở Trung Quốc không hề thuận buồn xuôi gió. Thời kì trước những năm 80 của thế kỉ 20, lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại bắt đầu thâm nhập vào Trung Quốc, lần lượt trải qua thời kì dịch giới thiệu và thời kì phát triển, thời kì thúc đẩy phát triển (những năm 90), thời kì cao trào và thời kì có những biến động mới (từ đầu thế kỉ 21), và đã đạt được thành tựu vô cùng to lớn, những chuyên luận và sách dịch về chủ đề này có đến hơn trăm cuốn, những bài viết liên quan có đến hàng nghìn, cho nên ảnh hưởng của nó là không thể phủ nhận. Theo tôi, ảnh hưởng tích cực của nó là đã tham gia vào việc đổi mới lí luận văn học Trung Quốc, gợi mở tư duy. Tuy ảnh hưởng tích cực chiếm vị trí chủ đạo nhưng chúng ta cũng nên tỉnh táo đối với những ảnh hưởng tiêu cực. Bài viết này chủ yếu phê phán ảnh hưởng tiêu cực của lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại trên một số phương diện sau:
1.  Chủ nghĩa hậu hiện đại phủ nhận triệt để đại tự sự dẫn đến hóa giải căn bản quan điểm duy vật lịch sử của mĩ học và văn nghệ học
Đại tự sự (grand narrative) và tiểu tự sự (little narrative) là khái niệm do Jean-Francois Lyotard đề xuất trong cuốn “Hoàn cảnh hậu hiện đại”. Lí luận văn học đương đại Trung Quốc chịu ảnh hưởng vô cùng sâu sắc của lí luận đại tự sự chủ nghĩa hậu hiện đại. Khái niệm “đại tự sự” trong một thời kì khá dài xuất hiện rất nhiều trong những trước tác, văn chương phê bình và những bài viết liên quan, tần suất sử dụng rất cao, trở thành diễn ngôn thời thượng, tuy nhiên, sự sử dụng phần lớn không phù hợp với nguyên nghĩa của nó, thường có sự hiểu lầm, nhầm lẫn. Hơn nữa, chúng ta không thể phủ nhận một số gợi ý của nó đối với việc xây dựng lí luận văn nghệ Trung Quốc.
Nhưng nhìn chung, lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại phủ nhận toàn bộ đại tự sự, cho nên đã bộ lộ rất nhiều mặt tiêu cực. Lyotard rõ ràng coi chủ nghĩa Marx là một ví dụ tiêu biểu của đại tự sự. Quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác là vũ khí tư tưởng lớn mạnh giải phóng toàn nhân loại, lại là một hệ thống lí luận vô cùng chặt chẽ, hiển nhiên vừa là tự sự giải phóng, vừa là tự sự tư biện, là đại tự sự mà chủ nghĩa hậu hiện đại ra sức phản đối và muốn hóa giải. Điểm chí mạng của việc chủ nghĩa hậu hiện đại hóa giải đại tự sự là triệt để phủ nhận quan điểm duy vật lịch sử, phủ nhận sự phát triển khoa học xã hội nhân văn, làm cho nó dừng lại ở việc miêu tả biểu hiện bề mặt vụn vặt. Fredric Jameson – nhà nghiên cứu uy tín về chủ nghĩa hậu hiện đại cũng không hề tán đồng quan điểm hóa giải đại tự sự, khi trả lời luận điệu thời thượng “lí luận đã chết”, ông đã chỉ ra một cách trực tiếp là có rất nhiều “kinh điển lí luận” đang tiếp tục phát huy tác dụng trong thời đương đại, “kinh điển lí luận” không chỉ bao gồm những trước tác cơ bản, như lí luận nhân loại học cấu trúc của Lévi-Strauss, mà còn bao gồm cả kinh điển của quá khứ - quay ngược trở về với Mác và Freud, và những văn bản kinh điển của các nhà lí luận khác”, ông đặc biệt nhấn mạnh, “có thể khẳng định rằng, muốn né tránh Marx và Freud trong các trước tác lí luận là không thể được, vì hai người đã chạm đến kinh nghiệm của toàn bộ nhân loại, hiện thực kinh tế xã hội và hiện thực tâm lí của toàn bộ xã hội” (1), cho nên không thể né tránh đại tự sự. Nếu như triệt để phủ nhận đại tự sự thì mọi cách tân văn nghệ học đều sẽ rơi vào hư không, vì lí luận văn nghệ tuyệt đối không thể xa rời sự chỉ đạo của quan điểm duy vật lịch sử với tư cách là cơ sở lí luận. Nếu như xóa bỏ tất cả mọi thứ gọi là đại tự sự của quan điểm duy vật lịch sử, trong nghiên cứu một số vấn đề cụ thể (tiểu tự sự), lí luận văn học có thể được thúc đẩy, nhưng khung lí luận tổng thể, quy luật hình thành và phát triển của lịch sử văn học, tính hệ thống, tính logic của nó bị hóa giải sẽ làm cho văn nghệ học rơi vào nguy cơ khoa học thực sự.
            Thực ra, không chỉ thuyết “hình thái ý thức thẩm mĩ” văn học mới như vậy, từ thời kì mới đến nay, rất nhiều chuyên luận văn nghệ học và giáo trình của Trung Quốc đều theo đuổi xây dựng hệ thống lí luận với quan niệm tương đối nhất quán và logic chặt chẽ, mang tính chất “tự sự tư biện” trong đại tự sự. Theo tôi, theo đuổi tính tư biện và tính hệ thống trong các trước tác lí luận khoa học xã hội nhân văn là một bước phát triển lớn thể hiện tính tự giác lí luận của giới học thuật Trung Quốc. Nếu như thực sự hóa giải toàn bộ đại tự sự trong đó có tự sự tư biện, e rằng lí luận văn học Trung Quốc chỉ có thể tiến đến cào bằng hóa, giản đơn hóa, vụn vặt hóa, từ đó đi đến suy thoái.
            Cần phải chỉ ra rằng, tuyệt đại đa số học giả Trung Quốc sử dụng một cách phủ định khái niệm “đại tự sự”, chứ không thừa nhận sự phủ định của Lyotar đối với chủ nghĩa Marx, họ chủ yếu mượn tính chống đối của khái niệm hậu hiện đại trong nghiên cứu lí luận chủ nghĩa giáo điều, điều này là hợp lí, nhưng trên thực tế lại là chỉ dừng ở việc lí giải ý nghĩa mặt chữ của khái niệm đại tự sự nên dẫn đến hiểu lầm và sử dụng sai. Có thể thấy, tư tưởng phủ nhận triệt để, hóa giải triệt để đại tự sự của chủ nghĩa hậu hiện đại, trong lĩnh vực văn nghệ học là có hại và trên thực tế là không hợp lí.
2. Tư tưởng phản bản chất chủ nghĩa hậu hiện đại bị hiểu và lợi dụng thái quá dễ rơi vào cạm bẫy của việc triệt để hóa giải bản chất
Triết học không đồng nhất hoặc triết học khác biệt của chủ nghĩa hậu hiện đại phê phán triết học đồng nhất từ thời Hegel là chủ nghĩa bản chất. Vì triết học đồng nhất cho rằng, phía sau hiện tượng của sự vật bất kì đều có “bản chất” quyết định sự vật đó là thế này hay thế khác, nó là cơ sở của tính đồng nhất. Chủ nghĩa hậu hiện đại phê bình triết học đồng nhất đã sản sinh ra quan niệm bản chất chủ nghĩa, mà chỗ dở nhất của nó là đã coi nhẹ hoặc che đậy tính khác biệt, đặc tính và nét riêng của sự vật. Adonor đã khẳng định tính đa nguyên, tính đa tầng và tính quá trình (4), tính sinh thành và tính phức tạp của bản chất nghệ thuật, điều này có nghĩa là chúng ta nên từ bỏ nỗ lực tìm kiếm bản chất duy nhất, cố định bất biến của nghệ thuật. Nếu như chỉ lí giải như vậy, theo tôi, phản bản chất chủ nghĩa có tính hợp lí của nó, và có giá trị gợi ý cho việc xây dựng đổi mới lí luận văn học của chúng ta. Nhưng lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại không dừng ở đó, nó đẩy tính sinh thành, tính quá trình đến cực đoan, từ đó về căn bản đã hóa giải phạm trù bản chất và tất cả tính khả năng của nhận thức đối với bản chất. Nó nhấn mạnh tính sinh thành, tính quá trình của nghệ thuật cũng thể hiện ra là tính phiến đoạn, tính phi logic, quan hệ giữa chúng là quan hệ sinh thành động. Vì thế, theo họ bản chất của nghệ thuật cũng không thể xác định (5).  Như vậy, ngoài quan hệ, quá trình, sinh thành và lịch sử, bản chất của nghệ thuật chỉ còn lại là tính không xác định, không thể nắm vững, cho nên bất kì sự cố gắng tìm hiểu bản chất nghệ thuật đều trở nên vô nghĩa. Người viết cho rằng, chủ nghĩa phản bản chất ở đây đã hơi thái quá. Giải cấu trúc của Derida lại đi xa hơn. Ông phát minh ra một hệ thống thuật ngữ để hóa giải tính khả năng của bản chất và nhận thức bản chất. Ví dụ như “phát tán” chỉ văn bản là đa nghĩa, mà đa nghĩa của nó là phiến đoạn và tản mạn, nó “đã chứng thực sự thay đổi không có điểm dừng”(6); “phát tán” không phải là chủ nghĩa hoàn nguyên, “một trong hàm nghĩa cơ bản của “phát tán” chính là hoàn nguyên văn bản thành… tính không thể của hiệu quả, như ý nghĩa, nội dung, luận điểm hoặc chủ đề…”(7), càng không thể tìm kiếm, hoàn nguyên bản chất cố hữu của văn bản. Ở đây, chủ nghĩa giải cấu trúc hậu hiện đại giải cấu chủ nghĩa bản chất đã vượt quá “độ” rất xa, bản thân sách lược của phản bản chất chủ nghĩa đã rơi vào chủ nghĩa hư vô. Chủ nghĩa phản bản chất thái quá này cũng được phản ánh trong lí luận đương đại Trung Quốc, tập trung biểu hiện trong thảo luận về vấn đề biên giới văn học và nghệ thuật học. Có học giả máy móc áp dụng chủ nghĩa phản bản chất, phát ngôn một cách thiếu căn cứ rằng Trung Quốc đương đại đã bước vào “thẩm mĩ hóa đời sống thường nhật” rồi. Lí do của nó là cách mạng truyền thông đã làm cho ranh giới giữa văn học nghệ thuật và đời sống thường nhật được thẩm mĩ hóa dần dần biến mất, một loạt dạng thức thiếu thẩm mĩ hóa vốn thuộc về vành đai bên ngoài ồ ạt thâm nhập vào khu vực văn nghệ. Nên thấy rằng, “biên giới” văn học mà chúng ta gọi, trên thực tế chính là chỉ bản chất của văn học hoặc quan niệm về bản chất của văn học. Căn cứ lí luận của họ là, biên giới và bản chất của văn học do con người xây dựng trong quá trình lịch sử, luôn nằm trong sự biến động không ngừng, vì thế nó không xác định. Sự biến động và không xác định của biên giới văn học trên thực tế là sự biến động và không xác định của bản chất của văn học và quan niệm về bản chất văn học. Nên thừa nhận, cho rằng biên giới và bản chất của văn học không ngừng biến động là có lí, nhưng hoàn toàn phủ nhận tính tất yếu và tính khả năng của việc nghiên cứu thì lại là thái quá, dùng “thẩm mĩ hóa đời sống thường nhật” để giải thích sự mất hiệu quả của biên giới thẩm mĩ của văn học đương đại chính là biểu hiện của sự thái quá này. Quả thật, trong lịch sử phát triển văn học, biên giới của văn học và quan niệm về bản chất văn học nhìn chung luôn không xác định, luôn nằm trong sự biến động. Quan niệm về bản chất văn học, lí giải về hàm nghĩa bản chất “văn học”  (biên giới và phạm vi của văn học), đều đã trải qua quá trình từ rộng đến hẹp, rồi lại từ  hẹp đến rộng. Từ “văn học” (literature) của phương Tây từ lâu đều được dùng với nghĩa rộng, chỉ các loại văn hiến và tác phẩm sử dụng ngôn ngữ văn tự, chỉ có “thơ” về cơ bản mới tương đương với văn học theo nghĩa hiện đại. Mãi đến thế kỉ 18, quan niệm bản chất văn học theo nghĩa hẹp với tư cách là nghệ thuật ngôn từ (thẩm mĩ) mới được xác lập và dần dần được tiếp nhận rộng rãi. Đây là lần biên giới của văn học thay đổi từ rộng đến hẹp. Từ thế kỉ 19, cùng với sự phát triển của xã hội hiện đại, cách mạng khoa học kĩ thuật và cách mạng truyền thông, loại hình, dạng thức văn học Trung Quốc và thế giới cũng không ngừng thay đổi. Một số loại hình văn học trước đây không có đã xuất hiện, như văn học điện ảnh, văn học truyền hình, văn học mạng..; một số loại hình văn học vốn đã có cũng xuất hiện rất nhiều biến thể, ví dụ thể loại tiểu thuyết, không những có trường thiên, trung thiên, đoản thiên, còn có thêm tiểu thuyết ngắn, truyện cực ngắn, truyện trên điện thoại…, sự ra đời của tản văn văn hóa cũng là một loại mới bổ sung thêm cho văn bản tản văn. Đây lại là lần biến động từ hẹp đến rộng của biên giới, phạm vi văn học.  Nhưng hai lần biến động trong lịch sử quan niệm văn học tính chất không giống nhau. Lần trước  là sự thay đổi thực sự để xác định bản chất thẩm mĩ và biên giới của văn học. Từ đó, văn học đã có bản chất đặc thù riêng xác định, biên giới và phạm vi này tuy về lượng còn có thể mở rộng hoặc thu nhỏ, nhưng đến nay vẫn có bản chất tương đối ổn định, nếu đột phá hoặc vượt qua đặc tính bản chất này thì sẽ đột phá biên giới thực sự quyết định văn học là văn học, và sẽ tiến tới phi văn học, trên thực tế cũng làm biến mất biên giới tự thân của văn học. Theo tôi, lần biến đổi sau chỉ là sự mở rộng và biến đổi về lượng, chỉ là sự mở rộng mang tính co giãn biên giới và phạm vi của văn học trong tình huống bản chất thẩm mĩ của văn học chưa phát sinh thay đổi căn bản, chứ không phải sự thay đổi tính chất căn bản của biên giới. Cho nên, sự thay đổi lần thứ hai đã mở rộng bản đồ văn học về lượng, chứ không dẫn đến làm tiêu biến biên giới văn học; và điều đó đã chứng minh tính hữu hiệu, tính hợp pháp của bản chất thẩm mĩ và biên giới văn học vẫn tồn tại.
Tóm lại, chủ nghĩa phản bản chất thái quá của lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại, cuối cùng chỉ có thể đi đến chủ nghĩa tương đối và chủ nghĩa hư vô. Quả thực nó đã tạo ra một số ảnh hưởng tiêu cực đối với lí luận đương đại Trung Quốc. Nhưng thông qua tranh luận học thuật, thảo luận về cơ chế học thuật của giới lí luận văn nghệ, ảnh hưởng tiêu cực này được giảm xuống và tiêu hóa một cách có hiệu quả, thúc đẩy nhận thức biện chứng của mọi người về chủ nghĩa phản bản chất.
3. Cường điệu hóa chủ nghĩa phi lí tính hậu hiện đại phương Tây tạo ra khuynh hướng tiêu cực - chủ nghĩa cảm quan trong lí  luận và văn nghệ Trung Quốc
            Chủ nghĩa phi lí tính và lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại bắt nguồn từ trào lưu chủ nghĩa hiện đại, từ Schopenhauer, Nietzsche, Benedetto Croce, Bergson, Freud đến chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa huyền ảo, chủ nghĩa hiện sinh…. Lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại khi phê phán tính hiện đại lại không phê phán tư tưởng phi lí tính của nó, ngược lại, ở một mức độ nào đó lại cường điệu hóa nó, đặc biệt trong lĩnh vực văn nghệ và thẩm mĩ. Chủ nghĩa hậu hiện đại hoài nghi, phủ định vai trò của lí tính trong hoạt động nghệ thuật. Với chủ nghĩa hậu hiện đại, vị trí của những nhân tố phi lí tính như tiềm ý thức, tưởng tượng, mộng, ảo giác, bản năng, dòng ý thức, trực giác…trong sáng tác nghệ thuật nhất loạt được cường điệu hóa. Nguyên tắc tính phi công lợi thẩm mĩ của Kant ở một mức độ nào đó bị nguyên tắc khoái lạc cảm quan chen lấn, thay thế. Nên thấy rằng việc coi trọng vai trò của nhân tố phi lí tính, cảm tính trong hoạt động nghệ thuật và thẩm mĩ cũng ý nghĩa tích cực. Từ chủ nghĩa hiện đại đến chủ nghĩa hậu hiện đại, sự phát hiện, khám phá và khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của nhân tố phi lí tính như tiềm ý thức, tưởng tượng, giấc mơ, ảo giác, bản năng, dòng ý thức, trực giác… trong hoạt động sáng tác nghệ thuật là có đóng góp. Nhưng nhấn mạnh một cách phiến diện, thái quá nhân tố phi lí tính và đẩy nó lên vị trí chi phối, hoàn toàn phủ nhận và triệt để bài trừ vai trò tham gia, thâm nhập và chi phối tiềm tại của nhân tố lí tính trong hoạt động tâm lí bề sâu của nghệ thuật và thẩm mĩ thì lại rơi vào một cực đoan khác, không những không phù hợp với thực tiễn hoạt động nghệ thuật và thẩm mĩ, mà còn làm đảo lộn tiêu chí chủ yếu đánh giá con người với tư cách là con người – con người với hoạt động lí tính có ý thức, chứ không phải là hoạt động cảm quan, cảm tính, phi lí tính thuần túy. Cho nên, theo tôi lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại có một sai lầm nghiêm trọng đó là đã nhấn mạnh một cách phiến diện chủ nghĩa phi lí tính.
Ảnh hưởng tiêu cực của chủ nghĩa phi lí tính hậu hiện đại cũng thể hiện trong nghệ thuật và lí luận Trung Quốc đương đại. Từ những năm 90 của thế kỉ 20, nghệ thuật và văn hóa thẩm mĩ Trung quốc bị công kích mạnh mẽ bởi xu hướng toàn cầu hóa, thị trường hóa, hàng hóa hóa; từ thế kỉ 21, văn hóa chủ lưu và hình thái ý thức không ngừng bị “hóa giải”, văn hóa đại chúng với khí thế không thể ngăn cản lan rộng khắp nơi, “văn hóa tiêu dùng, tiêu khiển, tiêu nhàn” nhanh chóng bước lên vị trí chủ lưu trên thị trường văn hóa nghệ thuật, từ đó tiến trình thế tục hóa, dục vọng hóa, giải trí hóa của văn hóa thẩm mĩ nghệ thuật nhanh chóng từ vị trí bên lề tiến vào trung tâm, điều này thể hiện ở việc lan tràn của chủ nghĩa hưởng lạc và sự khuếch trương vô độ của dục vọng cảm quan trong bộ phận sáng tác và thưởng thức văn nghệ, một số lượng tương đối lớn tác phẩm thể hiện dục vọng thấp kém, dung tục, thiên sang thân xác. Trong đó, quá coi trọng thân xác dung tục là không thể tha thứ, vì điều này là sự chủ động thỏa mãn thị hiếu không lành mạnh của một bộ phận công chúng, làm tổn hại tới linh hồn của nghệ thuật và văn hóa thẩm mĩ. Điều khiến người ta lo lắng nhiều hơn là: trong sự công kích của trào lưu chủ nghĩa phi lí tính hậu hiện đại, trong giới mĩ học và lí luận phê bình văn nghệ cũng tồn tại một số cực đoan thiên lệch, xa rời, thậm chí quay lưng với tinh thần văn hóa thẩm mĩ, thể hiện rõ nhất trong việc trỗi dậy của khuynh hướng chủ nghĩa cảm quan, chủ nghĩa thực dụng trên phương diện mĩ học. Nó lấy lí luận “thẩm mĩ hóa đời sống thường nhật” của học giả phương tây đã được hiểu sai làm căn cứ, cho rằng Trung Quốc hiện nay đã bước vào xã hội tiêu dùng hậu hiện đại, tính giải trí, tính hàng hóa, tính tiêu dùng cảm quan đã trở thành đặc trưng cơ bản của văn học nghệ thuật rồi. Thậm chí còn có người vô tình hoặc cố ý dùng chủ nghĩa thực dụng để xuyên tạc mĩ học thân thể phương tây, như có học giả đã chỉ ra: “Đề xuất của chủ nghĩa thực dụng trong mĩ học muốn làm cho thân thể mĩ học hóa, mĩ học hóa thân thể, vì thế, mọi sự thỏa mãn cảm quan, sự bộ lộ của bản năng, sự giải tỏa của libido đều là sự thể hiện của mĩ học”. Theo tôi, tai hại của quan niệm mĩ học này là đã đẩy khoái lạc cảm quan trong hoạt động nghệ thuật và thẩm mĩ lên địa vị cao nhất một cách phiến diện, làm mất đi tính phê phán mặt tiêu cực của chủ nghĩa cảm quan hậu hiện đại, làm mất đi sứ mệnh đề cao tố chất tinh thần con người, tinh thần nhân văn, đề cao con người mà mĩ học và văn nghệ học nên có, đã làm mất thái độ lí tính đối với ý nghĩa hoặc giá trị nhân sinh, từ bỏ theo đuổi giá trị cao nhất của con người. Tư tưởng này, cho dù trên phương diện lí luận hay trên thực tế đều là tiêu cực.
4. Lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại có khuynh hướng phản nhân đạo chủ nghĩa, phản nhân văn chủ nghĩa, không có lợi đối với sáng tác văn nghệ và sự phát triển của lí luận
Chủ trương văn học nên tôn trọng con người, lấy con người là trung tâm, nâng cao cảnh giới nhân sinh, xây dựng tâm hồn, nhân tính cao đẹp đến nay vẫn có sức sống lí luận to lớn. Nhưng một vài nhân vật tiêu biểu của lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại lại kịch liệt phản đối chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân bản. Heidegger cho rằng, “chủ nghĩa nhân đạo” là sự cách gọi tốt nhất về sự vùng vẫy cuối cùng của siêu hình học bế tắc, nó coi ngôn ngữ là công cụ trong tay nhân loại và phục tùng ý chí của con người. Sự phủ định đối với chủ nghĩa nhân đạo này là sự thể hiện quan trọng của nhân tố hậu hiện đại trong tư tưởng Heidegger. Derrida trong bài viết Kết cấu của con người ông đã phân tích một văn bản của Heidegger, tiến thêm một bước cho rằng, phải trên tiền đề bài trừ một cách có hiệu quả bóng đen siêu hình của chủ nghĩa nhân đạo, mới có thể chất vấn vấn đề chủ nghĩa nhân đạo. Focault trong Từ và vật nói, “người” không phải là một sự thực tự nhiên, mà là một khái niệm tri thức mang tính lịch sử, là kết cấu tri thức của khoa học nhân văn hiện đại. Cuối cuốn sách này, Focault công nhiên tuyên cáo “Cái chết của con người”, tuyên xưng “con người là phát minh thời kì gần đây”. Lacan cũng khẳng định bản chất của chủ nghĩa phản nhân đạo trong phân tích tâm lí, ông cho rằng, sự phát hiện của Freud thể hiện trung tâm thực sự của con người đã không còn là cái trung tâm do toàn bộ truyền thống nhân đạo chủ nghĩa định vị nữa. Lyotard cũng nhấn mạnh triết học đương đại lẽ ra nên mạo hiểm vượt qua giới hạn của nhân loại học và chủ nghĩa nhân đạo. Họ đều tin rằng, lí tính khai sáng và ý chí tự do của chủ thể chẳng qua chỉ là một loại ảo giác. Căn cứ vào đó, chúng ta có thể nói, “phản nhân đạo chủ nghĩa” là khuynh hướng chung của chủ nghĩa hậu cấu trúc và trào lưu chủ nghĩa hậu hiện đại Pháp những năm 60-70 của thế kỉ 20. Tôi cho rằng, nguyên nhân sâu xa của sự đối lập giữa chủ nghĩa hậu hiện đại Pháp và chủ nghĩa nhân đạo là chủ nghĩa nhân đạo hiện đại tuy bề mặt giương cao ngọn cờ lí tính khai sáng, tự cho mình là người giải phóng và bảo hộ tôn nghiêm nhân loại, nhưng thành công duy nhất của nó là đi ngược lại với điều đó. Cho nên, chủ nghĩa nhân đạo hiện đại mới trở thành kẻ thù của chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhưng, đối với tính phức tạp này của chủ nghĩa nhân đạo hiện đại, các nhà tư tưởng hậu hiện đại như Focault, Derrida…, lại có lúc rất mâu thuẫn. Nhưng cho dù như thế nào, chính trào lưu hậu hiện đại làm cho con người hoài nghi chủ nghĩa nhân đạo, và có lúc sự hoài nghi này trở thành tiêu điểm được của giới tư tưởng phương Tây. Người viết cho rằng, lập trường phản đối chủ nghĩa nhân đạo phổ biến của chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn tồn tại rất nhiều thiên kiến và độ chênh đối với chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân bản. Rõ ràng chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân bản có hình thái lịch sử và nội hàm khác nhau, nhưng tinh thần hạt nhân lấy con người làm gốc của nó lại nhất quán, phổ biến trong các thời đại lịch sử. Chủ nghĩa nhân đạo hiện đại lấy lí tính khai sáng làm cơ sở, cuối cùng phát triển đến lí tính công cụ, trên thực tế xa rời tinh thần phổ biến của chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân bản. Nhưng chủ nghĩa hậu hiện đại lại nhất loạt muốn thủ tiêu chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân bản phổ biến, chân chính lại là một sai lầm nghiêm trọng. Khi Marx xây dựng quan niệm duy vật lịch sử, không những không phủ định và từ bỏ chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân bản, ngược lại đem chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân bản hòa vào trong quan niệm duy vật lịch sử, làm cho nó trở thành một bộ phận cấu thành hữu cơ của quan niệm duy vật lịch sử. Cho nên, chúng ta nên giữ thái độ phân tích phê phán cụ thể đối với khuynh hướng phản nhân đạo chủ nghĩa trong lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại. Sự phủ định và phê phán của văn luận chủ nghĩa hậu hiện đại đối với chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa nhân bản khi đến Trung Quốc đã tạo nên phản ứng mãnh liệt của giới học thuật. Trung kì thập niên 90 của thế kỉ 20 “Đại thảo luận về tinh thần nhân văn” trong lí luận đã tập trung thể hiện sự phản ứng này.
5. Lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại “phản đối diễn giải”, có nghĩa là từ trung lập giá trị đi đến hư vô giá trị
            Chủ nghĩa hậu hiện đại sở dĩ “phản đối diễn giải” là do quan niệm về văn bản của chủ nghĩa giải cấu trúc xây dựng trên cơ sở triết học khác biệt. Kristeva trên cơ sở tiếp thu lí thuyết đối thoại của Bakhtin, phê phán ngôn ngữ học chủ nghĩa cấu trúc, lấy nghiên cứu tiểu thuyết làm đối tượng đã đề xuất lí luận “tính liên văn bản” trong tác phẩm văn học, bà nói: “Đối thoại theo Bakhtin, coi sự viết là thể kết hợp giữa tính chủ thể và tính giao lưu, hoặc nói chính xác hơn, là tính liên văn bản. Đối diện với đối thoại, khái niệm “chủ thể viết cá nhân” ẩn đi, mà thay vào đó là khái niệm “viết mang tính song trùng”(ambivalence of writing). Tính liên văn bản như Kristeva nói, một là chỉ bất kì văn bản nào đều là sự khảm nạm và biến hình của văn bản khác; hai là chỉ văn bản là nơi độc giả và tác giả đối thoại, là nơi dung nạp hàm nghĩa đối lập lẫn nhau; ba là chỉ quá trình vận động hai chiều giữa văn bản chủ thể hóa và chủ thể văn bản hóa. Như vậy, quan niệm tính xác định và tính có thể diễn giải về ý nghĩa của văn bản truyền thống đã bị giải cấu. Quan niệm văn bản của Barthe cũng có chỗ tương đồng rất thú vị. Sau khi ông tuyên bố “tác giả đã chết”, trên thực thế đã tiến thêm một bước tuyên bố cái chết của tác phẩm. Tác phẩm chết rồi, mới ra đời văn bản. Nhưng văn bản không phải là khách thể tồn tại ngoài sự đọc của độc giả, nó lại chỉ được phát hiện và sinh thành trong sự đọc của độc giả. Bản thân văn bản không có kết cấu, không có trung tâm, không có ý nghĩa xác định. Quan niệm văn bản này của chủ nghĩa hậu hiện đại đã hoàn toàn phủ định văn bản có khả năng biểu hiện chân lí xác định. Vì thế, cố gắng diễn giải ý nghĩa văn bản, làm rõ tính chân lí trong đó tự nhiên bị tiêu hủy. Giống như có học giả từng nói: “Việc xuất hiện của văn hóa hậu hiện đại, trên tầng diện tư duy luận đã phá vỡ trung tâm luận truyền thống, khai mở một cảnh giới mới, nhưng trên tầng diện giá trị luận lại mang đến sắc thái hư vô cho toàn bộ mĩ học văn hóa.
Tư tưởng hư vô giá trị của lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại không có ảnh hưởng rõ nét trong lí luận văn nghệ và giới mĩ học Trung Quốc, trong điều kiện chi phối của hình thái ý thức chủ lưu, căn bản không có chỗ cho chủ nghĩa hư vô giá trị. Nhưng trong lĩnh vực sáng tác văn nghệ, để né tránh diễn giải và cố ý sử dụng một số sách lược sáng tác của chủ nghĩa hậu hiện đại thì lại ở đâu cũng có. Nên thấy rằng loại lập trường này chắc chắn có hại đối với tính khuynh hướng giá trị lành mạnh và trách nhiệm xã hội đối với việc xây dựng tâm hồn cao đẹp mà sáng tác văn nghệ nên có.
Tóm lại, ảnh hưởng tiêu cực của lí luận chủ nghĩa hậu hiện đại đối với lí luận đương đại Trung Quốc là sự một sự thực khách quan, chúng ta không được chủ quan lơ là, nhưng chúng ta cũng không nên phủ nhận ảnh hưởng tích cực của nó trong việc xây dựng và phát triển của lí luận đương đại, không nên phủ nhận toàn bộ nó một cách giản đơn, nên tiến hành phê phán phân tích thận trọng, khách quan công bằng.

                                                                                             Bu San, 21-07-2014
                                                                                                  Đỗ Văn Hiểu
                                                                                       Lược dịch từ tiếng Trung
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Văn nghệ, số 1 năm 2014
Chú thích:
1. Trương Húc Đông: Đọc sách phỏng vấn Jameson: “Lí luận đã chết”? Lí luận làm thế nào?”, theo “Trung Hoa độc thư báo”, 5-12-2012
2. Trương Húc Đông: “Lí luận của Jameson và hiện thực Trung Quốc”, theo “Văn nghệ báo” 21-11-2012
3, 4. T.W. Adordno, “Aesthetic Theory”, trans. Robert Hullot – Kentor, London: Continuum, 1997, pp.1-6, p.2
5. Derrida: “Lập trường đa trùng”, Dư  Bích Bình dịch, Tam liên thư quán xuất bản, 2004, tr95

6, 7.  Christina Howells  :”Derrida”, Trương Dĩnh… dịch, nxb Nhân dân Hắc Long Giang, 2002, tr 96, 165

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét