Nguyễn Văn Nguyên([*])
1. Tự sự học vào Trung Quốc
Sau phương Tây khoảng 20 năm, những năm thuộc thập niên 80 của thế kỉ XX được nhiều học giả Trung Quốc ghi nhận là thời của tự sự học của Trung Quốc. Tiền Trung Văn trong Nhận xét của chuyên gia của cuốn Tự sự học Trung Quốc viết: “Tự sự học là phương pháp lí luận văn học được bắt đầu từ phương Tây từ những năm 60 của thế kỉ XX, dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa cấu trúc và ngôn ngữ học, cho đến những năm 80 đã được giới thiệu đến Trung Quốc. Nó đã hấp dẫn một số trí thức trẻ và họ cũng đã có nhiều tác phẩm tốt. Ít nhất có thể kể tới 4 bộ nhưng phần lớn đều là việc tổng hợp lại những quan điểm của nước ngoài rồi lấy thêm những ví dụ Trung Quốc để dẫn chứng”(1).
Tuy trong bài nhận xét này, Tiền Trung Văn không nói rõ nhưng một số học giả Trung Quốc đã ghi danh những tác phẩm được đánh giá là có đóng góp lớn vào nghiên cứu tự sự học ở Trung Quốc với: Chuyển biến mô thức tự sự trong tiểu thuyết Trung Quốc của Trần Bình Nguyên (1988); Tự sự học tiểu thuyết của Từ Đại (1992)(2), Tự sự học Trung Quốc của Phố An Địch (1996)(3), cùng năm 1997 với hai cuốn Dẫn luận tự sự học của La Cương(4) và Tự sự học Trung Quốc của Dương Nghĩa(5),Nghiên cứu tự sự học với thể loại văn học tiểu thuyết của Thân Đan (2004)(6), Biến dạng canaval và thẩm mỹ của tự sự - Tự sự học với tiểu thuyết tiên phong đương đại Trung Quốc của Nam Chí Cương(7)…
Rõ ràng, những thành tựu mà nghiên cứu tự sự học ở Trung Quốc có được như ngày nay là nhờ chính sách “khai phóng” trong những năm đầu thập kỉ 80 ở thế kỉ XX với những bước tiến hợp lí để có thể đạt được mục tiêu “từ không đến có”, “từ học tập tiến đến đối thoại với thế giới”.
Cũng như các nước phương Đông khác, các nhà tự sự học Trung Quốc cũng phải trải qua các bước giới thiệu và dịch thuật các tác phẩm lí luận tự sự có tính kinh điển từ phương Tây cho độc giả trong nước. Toàn bộ các tác phẩm lí thuyết được coi là nghiên cứu tự sự cơ bản từ phương Tây đã được tiến hành dịch và xuất bản. Có thể kể đến các cuốn: Tu từ học tiểu thuyết của Wayne Booth (1987)(8); Figure III: Diễn ngôn mới của truyện của Gerard Genette (1990)(9); Tác phẩm tự sự hư cấu: Thi pháp học đương đại của Reamon Kennan (1991)(10); Giới thiệu lí thuyết tự thuật của Mieke Bal (2003)(11); Tự sự học đương đại của Martin Wallace (2005)(12) và một số các công trình Nghiên cứu tự sự học của các danh gia lí thuyết phương Tây như R. Barthes, T. Todorov, A. Greimas…
Có thể thấy, hoạt động dịch thuật, giới thiệu, nghiên cứu tự sự học ở Trung Quốc luôn là quá trình liên tục và xen kẽ mà kể cả cho tới nay, các tác phẩm nghiên cứu tự sự học từ phương Tây vẫn tiếp tục được dịch và giới thiệu ở Trung Quốc.
Trong suốt quá trình đó, cũng có những lúc, nghiên cứu tự sự học tại Trung Quốc tưởng chừng như đã “chết”. Nhưng gần đây, việc mở rộng những xu hướng nghiên cứu tự sự trên thế giới đã hối thúc các nhà tự sự học Trung Quốc phải tìm cho ra những hướng đi phù hợp để có thể thoát khỏi những “bế tắc” trong nghiên cứu tự sự học theo đường hướng kinh điển trong quá khứ. Để có thể cung cấp những khung hình lý luận mới, các nhà tự sự học Trung Quốc hết sức chú ý tới trào lưu nghiên cứu tự sự của Mỹ. Nhóm dịch Tân tự sự học, thuộc Đại học Bắc Kinh có thể coi là những người tiên phong trong nhiệm vụ dịch và giới thiệu các công trình tự sự học mới đến từ nước Mỹ. Có thể kể đến các cuốn: Tân tự sự học của David Herman (2002)(13), Tự sự học đương đại của Wallace Martin (2005)(14), Lý luận tự sự hậu hiện đại của Mark Currie (2003)(15), và Tạo lập tự sự của tu từ: Kĩ xảo, độc giả, lí luận, hình thái ý thức của James Phelan (2002)(16). Theo Lê Thời Tân, với nỗ lực “nhằm giúp cho người Trung Quốc ý thức được bước tiến mới của tự sự học trong bối cảnh Bắc Mỹ đã trở thành trung tâm của tự sự học hậu cấu trúc luận thay thế cho trung tâm Pháp trong thời kì tự sự học kinh điển cấu trúc luận…”(17), các công trình dịch thuật của họ đã từng bước thúc đẩy nghiên cứu tự sự học theo đường hướng mới tại Trung Quốc.
Song song với việc dịch và giới thiệu, công tác phê bình cũng là nhiệm vụ đối với các nhà nghiên cứu tự sự học Trung Quốc. Trong khoảng 10 năm (1990 - 1999) có khoảng 40 bài nghiên cứu liên quan tới tự sự học của Trung Quốc chủ yếu được đăng tải trên một số tạp chí chuyên ngành như: Ngoại ngữ giáo học dữ nghiên cứu, Ngoại quốc ngữ, Ngoại quốc văn học bình, Ngoại quốc văn học nghiên cứu của Đại học nhân dân, Ngoại quốc văn học nghiên cứu (Vũ Hán), Giải phóng quân ngoại quốc ngữ học viện báo, Tứ Xuyên ngoại ngữ học viện học báo, Ngoại ngữ nghiên cứu, Văn học bình luận và Tây An ngoại quốc ngữ học viện học báo…, trong đó những bài lí luận phân tích có 10 bài (chiếm 25%), nghiên cứu có 30 bài (chiếm 75%)(18)…
Đó là những tiền đề quan trọng để những công trình nghiên cứu tự sự học mới tại Trung Quốc hình thành và phát triển. Đường Vĩ Thắng trong Tình hình nghiên cứu tự sự học Trung Quốc giai đoạn 1999-2002 trên một số báo chuyên ngành nhận xét: “Nghiên cứu tự sự học thời kì này (1999 – 2002) đang chuyển hình, là giai đoạn tiêu hóa và ứng dụng tự sự học truyền thống (tự sự học kinh điển)”(19). Không tránh né thực tại, Đường Vĩ Thắng cũng đã chỉ ra những thiếu khuyết trong nghiên cứu tự sự học Trung Quốc giai đoạn đó: “Cơ sở những nghiên cứu lí luận của chúng ta còn dừng lại ở lĩnh vực tự sự học kinh điển. Chúng ta còn thiếu những giới thiệu và nghiên cứu nhân vật quan trọng mới nhất của nước ngoài. Cũng có những học giả để ý tới những tệ đoan của nghiên cứu tự sự học chủ nghĩa cấu trúc, thử tìm kiếm lối thoát thông qua việc giới thiệu những lí thuyết tương đối của phương Tây, đặc biệt là nhấn mạnh những nghiên cứu về hình thái ý thức, sự tiếp nhận của độc giả và tu từ, nhưng số nghiên cứu này mãi mãi là không đủ, không thể che đậy được xu hướng nghiên cứu tự sự mới của nước ngoài”(20).
Qua tiến trình dịch thuật, giới thiệu, phê bình, viết sách của các nhà nghiên cứu tự sự học Trung Quốc trong những thập niên cuối thế kỉ XX và những năm sau đó là tiền đề thuận lợi để tổ chức những cuộc hội thảo chuyên ngành. Bắt đầu là Hội thảo về Tự sự học với quy mô toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại Đại học Sư phạm Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến vào năm 2004. Tại đây, các tham luận của các nhà tự sự học Trung Quốc đã đánh dấu những bước tiến về nghiên cứu tự sự học Trung Quốc trong thiên niên kỉ mới. Các bài tham luận được tập hợp trong cuốn Con đường Trung Quốc của tự sự học(21) cho thấy các nhà nghiên cứu tự sự học Trung Quốc đã làm chủ được lý thuyết tự sự trên nhiều lĩnh vực, trong đó rõ nét nhất là lĩnh vực văn học cũng như văn hóa. Phó Tu Diên với bài Bàn về những đóng góp mới của Tự sự học đối với nghiên cứu văn bản học đã có những ý kiến xác đáng về định hướng phát triển của nghiên cứu tự sự học Trung Quốc. Ông cho rằng, nghiên cứu tự sự học không chỉ dừng ở các tác phẩm văn học, các trào lưu văn học mà đã tiến đến liên văn bản, tới sự qua lại đan xen giữa các môn ngành nghệ thuật khác nhau mà đáng chú ý nhất là hiện tượng liên văn bản giữa văn học và điện ảnh qua sự trợ giúp của công nghệ tin học. Ngoài ra còn có thể kể đến các tác giả khác như Đàm Quân Cường (Luận về bình diện hình thái ý thức của điểm nhìn trong tác phẩm tự sự ), Lưu Khánh Chương (Tự sự học trong con mắt của lĩnh vực thi học văn hóa), Vương Dương (Lý luận ý nghĩa văn bản của một dạng hình thức hóa là không thể?), Lý Kiến Đông (Chủ nghĩa giải cấu trúc với văn bản tự sự), Vương Thành Quân (Luân lý tự sự: Bảo đảm đạo đức trong tiểu thuyết tự sự phương Tây và Trung Quốc), Tổ Quốc Tụng (Tự sự hậu kinh điển: đầy văn tính cho đến những biểu trưng văn hóa), Lý Hiểu Ninh (Văn hóa kiểm điểm trong văn học tự sự bị chính trị hóa), Lưu Thiệu Tín (Năm hình thái người tự thuật trong tiểu thuyết đương đại), Vương Hồng Nhạc (Bàn về tác giả tiểu thuyết hiện đại), Hồ Minh Quý (Quay lại thi pháp học tự sự), Vương Vinh (Bàn về tự sự cho đến thi pháp của nó trong lý luận thơ văn cổ đại Trung Quốc)… thì cũng có thể thấy việc ứng dụng rộng rãi tự sự học trên các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật ở Trung Quốc.
Sau đó 2 năm, năm 2006, Hội thảo khoa học về Tự sự học toàn quốc lần thứ hai lại được tổ chức tại Trùng Khánh với nhiều hướng phát triển mới. Những thành tựu đạt được qua hai kì hội thảo là tiền đề chắc chắn để tự sự học Trung Quốc vươn lên tầm quốc tế. Tinh thần đối thoại với thế giới luôn là khát vọng lớn lao. Năm 2007 được coi là mốc dấu quan trọng của nghiên cứu tự sự học Trung Quốc với sự góp mặt của các nhà tự sự học nổi tiếng quốc tế như nhà tu từ học tự sự James Phelan, Peter J. Rabinowitz; nhà tự sự học nữ quyền chủ nghĩa Robyn Warhol, Sangeeta Ray; nhà tự sự học hậu hiện đại Brian Mc Hale, Brian Richardson,… đã đánh dấu những bước tiến của nghiên cứu tự sự học vào những lãnh địa mới ngoài văn học ở Trung Quốc.
Có thể nói, 15 năm là quá trình tự sự học đã có thể làm quen, bắt rễ và phát triển phồn vinh trên mảnh đất Trung Quốc, mảnh đất vốn có một cơ sở triết học và lí luận vốn xa lạ, nếu không nói là “trái ngược” với triết học và lí luận phương Tây.
2. Tự sự học kinh điển
Như trên đã nói, nghiên cứu tự sự học ở Trung Quốc là một quá trình. Nếu tính từ đầu thế kỉ XX, ít nhất nền lí luận Trung Quốc cũng đã một lần cải cách toàn diện trong học phong Ngũ tứ. Trong giai đoạn đó, những thành tựu đáng kể nhất trong lĩnh vực văn học không thể không nói đến sự ra đời của các thể loại văn bản cận văn học như báo chí, thư tín, luận chiến… Toàn bộ sự đóng góp của chúng dường như được tái hiện hết sức rõ ràng và sâu sắc với những phân tích xác đáng qua công trình Chuyển biến mô thức tự sự của tiểu thuyết Trung Quốc của Trần Bình Nguyên. Trần Bình Nguyên là Giáo sư chủ nhiệm khoa Trung văn Đại học Bắc Kinh. Công trình Chuyển biến hình thức tự sự tiểu thuyết Trung Quốc của ông được tặng giải Nhì Tác phẩm ưu tú về nghiên cứu Khoa học xã hội nhân văn toàn quốc lần đầu của Bộ giáo dục Trung Quốc năm 1995. Có thể nói, công trình là một cống hiến quan trọng trong lịch sử nghiên cứu tự sự của văn học Trung Quốc giai đoạn đầu thế kỉ XX.
Sự xuất hiện của thể loại tiểu thuyết mới, tiểu thuyết trinh thám cũng đã được Trần Bình Nguyên đề cập và kiến giải sắc bén về tác dụng của nó đối với các thể loại tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc. Ông phân tích sự phá vỡ thời gian tự sự trong thể loại tiểu thuyết trinh thám đối với các nhà tiểu thuyết cuối Thanh - từ tự sự liên tục đến đảo trật tự, xen kẽ; cho đến những tri thức về tâm lý học của phương Tây (chủ yếu là tâm lí học tiềm thức của Freud) đối với kết cấu tự sự (tức lấy tình tiết làm trọng tâm của tự sự) là sự chuyển biến khó khăn nhất của các tác giả Ngũ tứ. Đối với sự chuyển biến về kết cấu tự sự, các tác gia Ngũ tứ đã có những đột phá mới vô cùng khó khăn là chuyển sang lấy tự bạch hay tâm lí làm trung tâm, từ đó dẫn đến sự đột phá về thời gian tự sự, về góc nhìn tự sự hay kết cấu tự sự, tạo nên một sự chuyển biến hoàn chỉnh về mô thức tự sự trong tiểu thuyết Trung Quốc. Từ phương diện “chuyển hóa truyền thống”, Trần Bình Nguyên đã phân tích tác dụng của tự sự toàn tri của các tân tiểu thuyết gia đối với “sử truyện của truyền thống”; cho đến ảnh hưởng có tính đột phá về kết cấu tự sự của thi ca truyền thống đối với các tác gia Ngũ tứ. Trần Bình Nguyên nhận thấy người kể chuyện trong sử truyện truyền thống thường với vai trò toàn tri, có tầm nhìn vĩ đại, xuyên suốt, có tính quyết định lịch sử,… Từ đó ông chỉ ra ở tiểu thuyết Trung Quốc đầu thế kỉ XX, người kể truyện lại trở nên bé nhỏ. Những bức tranh thời đại lớn lao trên cơ sở bị chi phối bởi những thế giới hữu hạn từ nhân vật với các vai trò nhỏ bé luôn là thủ pháp mà các tác gia thời đó sử dụng. Ông cho rằng đó chính là một bước tiến quan trọng của tiểu thuyết Trung Quốc thời cận hiện đại so với truyền thống.
Trên cơ sở tìm hiểu ảnh hưởng của truyền thống đối với tiểu thuyết Trung Quốc thời cận đại, Trần Bình Nguyên đã chỉ ra một trong những đặc trưng quan trọng của sử truyện và thi ca truyền thống. Đó là hiện tượng khi các sự kiện lịch sử bị khuyết thiếu, các tác giả để hoàn thiện cho các sự kiện đó thường bổ sung bằng các giai thoại vụn vặt trong dân gian. Chính điều đó khiến góc nhìn tự sự của nhân vật mất đi tính nhất quán. Còn đối với tính trữ tình của thi ca hiện đại, những ảnh hưởng tự sự của thi ca trữ tình truyền thống cũng có vai trò quan trọng. Nó không chỉ được biểu hiện trong những sáng tác thơ trữ tình có xu hướng tiểu thuyết hóa mà còn có xu hướng thi ca hóa các tiểu thuyết Trung Quốc trong giai đoạn từ cuối nhà Thanh cho đến thời Ngũ tứ.
Trần Bình Nguyên cũng có những nhìn nhận tinh tường để chỉ ra vai trò của một loại thể văn học tuy mới ra đời nhưng cũng đã có ảnh hưởng không nhỏ tới tính tự sự của tiểu thuyết cận đại Trung Quốc. Đó là hiện tượng các tiểu thuyết được cố định hóa với những yếu tố có tính chất văn bản. Ở góc độ này, ông chỉ ra những nguyên nhân khiến các mô thức tự sự trong tiểu thuyết Trung Quốc được chuyển biến. Mối quan hệ Tác giả – Xuất bản – Độc giả đã dần thành hình và rõ nét. Đối với Tác giả, chế độ nhuận bút đã khiến văn học sử Trung Quốc lần đầu tiên thấy xuất hiện một nghề văn thực sự với những con người chuyên nghiệp trong nghề – đó là Nhà văn. Để tồn tại trong một xã hội hiện đại với thị trường xuất bản báo chí và tiểu thuyết cũng ngày một hưng thịnh và phồn vinh, tần xuất ngày càng ngắn cũng khiến hình thái sáng tác của Nhà văn này chuyển biến, từ “nói – nghe” trong suy nghĩ sang “viết – đọc” trong hiện thực. Chính điều đó khiến tính chủ quan của các tác giả ngày càng được chú trọng. Ngược lại, tính thương phẩm của tiểu thuyết cũng thúc đẩy xu hướng tác giả hóa đầu thế kỉ XX diễn ra vô cùng nhanh chóng, trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy sự chuyển biến về mô thức của tiểu thuyết tự sự.
Có thể nhận thức rõ ràng rằng, tiểu thuyết giai đoạn đầu thế kỉ XX không chỉ là sự hợp lưu giữa văn học dân gian và văn học văn nhân mà còn là quá trình thông tục hóa của các dạng thức “cận văn học”. Chính điều này cũng khiến hình thái thẩm mỹ của tác giả bị điều khiển, khiến những giác độ tự sự khác nhau được sử dụng với mục đích cuối cùng là phải đạt hiệu quả cao nhất. Có thể thấy sự lạm dụng một số thủ pháp như trào phúng phần nào cũng làm yếu tố tình tiết bị “nhạt” đi nhưng chính điều đó lại làm phạm vi của trường cảnh được rộng mở… Sự chuyển biến đó đã thể hiện những biến đổi của ý thức thẩm mỹ, nhấn mạnh ý thức chủ thể của tác gia, nhấn mạnh cảm quan hình thức của tiểu thuyết và khuynh hướng tâm lí hóa các nhân vật trong tiểu thuyết. Ngoài ra ông cũng thấy rõ ý thức chủ thể của tác gia, những cảm quan về hình thức của tiểu thuyết và tâm lí hóa nhân vật cũng là những nguyên nhân làm ý thức thẩm mỹ đương thời thay đổi. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của chế độ giáo dục với xu thế quốc tế hóa lúc đó cũng khiến thị trường độc giả dần được hiện đại hóa với những gu thẩm mỹ hoàn toàn mới.
Về hình thức, phương thức xuất bản một kì chỉ in hai hồi truyện cũng khiến việc xây dựng tình tiết phải được giải quyết tương đối hoàn chỉnh chỉ trong hai hồi. Điều này cũng khiến tác giả phải tìm cách phân bổ thời gian tự sự trong mỗi hồi cho hợp lý với khuôn khổ của báo. Việc đó đã khiến cấu tứ tự sự trong toàn tiểu thuyết hoàn chỉnh bị coi nhẹ. Sự hoàn chỉnh của tiểu thuyết dần biến thành từ những phép cộng của các truyện ngắn được gói trong hình thức của các chương hồi. Rõ ràng điều đó cũng là một nguyên nhân quan trọng trong quá trình chuyển biến mô thức tự sự trong tiểu thuyết cận đại Trung Quốc.
Những cống hiến quý báu về phương pháp luận cũng như nguồn trích dẫn tư liệu phong phú của công trình cũng là một thử nghiệm quan trọng của các nhà nghiên cứu tự sự học Trung Quốc đối với di sản của quá khứ. Về phương pháp, có thể thấy hệ thống lý luận của công trình là dựa trên khung lý luận của chủ nghĩa hình thức Nga. Tuy nhiên, để có được những cống hiến đích thực đối với việc nghiên cứu tự sự học cổ điển Trung Quốc, Trần Bình Nguyên cho rằng: “Cơ sở lí luận được dựng trên hợp lực của hai hướng chuyển động mới là hạt nhân của cuốn sách, và cũng là mượn để có thể triển khai những giác độ lí luận cơ bản của lý thuyết”(22)…. “Hai hướng chuyển động” mà Trần Bình Nguyên muốn nói tới chính là sự giao thoa của mối quan hệ thẩm thấu lẫn nhau “trong anh có tôi, trong tôi có anh” và là mối quan hệ của sự đối thoại. Ông viết: “Trên văn đàn Trung Quốc thế kỉ XX, tiểu thuyết Trung Quốc đang đối thoại với tiểu thuyết phương Tây, một dạng đối thoại trước với một dạng đối thoại kiểu sau càng là sự đối thoại không ngừng”. Có thể nói, cuốn sách “là phác thảo đầu tiên một hệ thống cơ bản và quá trình vận động của mô hình tự sự tiểu thuyết Trung Quốc”(23).
Rõ ràng, sức ép phải nhanh chóng đối thoại với thế giới đối với các nhà khoa học xã hội Trung Quốc không hề nhỏ. Chính vì vậy, sự vội vã cũng có những sai lầm. Một trong những sai lầm chính là nóng vội áp đặt những phương pháp lý luận hoàn toàn xa lạ từ phương Tây vào lí luận Trung Quốc. Quá trình đó cũng đã gặp phải những lúng túng, thậm chí cứng nhắc khiến nhiều lúc chính các nhà lý luận “lầm lạc” ngay trong lý luận của mình. Dương Nghĩa trong Tự sự học Trung Quốc cũng đã có những nhận xét về hiện tượng đó. Ông viết: “Thứ tự thuận thời gian của Trung Quốc là “Năm à tháng à ngày” trong khi thói quen của phương Tây lại là “ngày à tháng à năm”. Trật tự không giống nhau sẽ biểu thị cho ý nghĩa không giống nhau à Trọng tâm ý nghĩa giữa Trung Quốc và phương Tây không giống nhau. Như thế là phương thức tư duy cũng khác nhau”(24). Ông chỉ ra: “Tư duy của người Trung Quốc là tính thống nhất, cái lớn bao hàm cái nhỏ; trong khi tư duy phương Tây lại là tư duy phân tích, cái nhỏ bao hàm lớn. Vì vậy đã ảnh hưởng tới tự sự học của phương Tây và Trung Quốc, ảnh hưởng đến thời gian và phương thức vận hành của tác phẩm văn học. Tự sự phương Tây coi trọng flashback(25), bắt đầu từ một người, một sự kiện, giới thiệu một người và đưa vào sự kiện. Nhưng tự sự Trung Quốc lại coi trọng prolepsis(26), tức tự sự kiểu lời dự báo. Tất thảy đều mông lung, lấy không gian, thời gian lớn để bao quát thời gian, không gian nhỏ”(27).
Dương Nghĩa đã chỉ ra những dị biệt về quan niệm và thói quen của người Trung Quốc và phương Tây, từ đó đề xuất đặt lại điểm xuất phát cho việc nghiên cứu tự sự học đối với các tác phẩm văn học cổ điển Trung Quốc, đó là phải “Trở lại với bản thổ”. Ông cho rằng, văn học tự sự cổ điển Trung Quốc vốn có nguồn gốc sâu xa và đậm đặc đặc trưng Trung Quốc. Vì thế, để nghiên cứu văn học tự sự cổ điển Trung Quốc phải xây dựng một nền lý luận tự sự học bắt đầu từ văn hóa Trung Quốc.
Có thể thấy văn học tự sự đương đại Trung Quốc đã “mượn” rất nhiều cấu trúc và kĩ xảo có nguồn gốc trực tiếp từ văn học và văn hóa phương Tây. Cũng phải công nhận rằng, việc áp dụng những mô hình lý thuyết tự sự phương Tây trên một số lĩnh vực cũng có sự tương đồng và hợp lí. Tuy nhiên để nghiên cứu các phương thức tự sự trong văn học cổ điển Trung Quốc thì lại cần có những thận trọng vì phong cách tự sự là khác biệt với tự sự của phương Tây. Ví dụ như hiện tượng đảo lộn trật tự thời gian trong những cuốn sử biên niên lớn của Trung Quốc. Nguyên nhân là do thói quen của các sử gia không muốn cắt vụn sự kiện qua lát cắt thời gian. Tính khởi điểm của tự sự thường liên quan tới tính tổng thể của tác phẩm. Thói quen của văn học Trung Quốc thường định vị bằng những không gian lớn, giá trị lớn. Đây là một trong những điểm cốt yếu của văn hóa Trung Quốc. Khác với điều này, chủ nghĩa cấu trúc của phương Tây thường bỏ qua những nhân tố tác giả và lịch sử, xã hội trong bình diện kết cấu, trong khi ở Trung Quốc, cấu trúc của tác phẩm lại là mối quan hệ giữa cấu trúc và kĩ pháp. Kết cấu của một từ trước hết là động từ, sau mới kéo theo danh từ có tính động từ. Dương Nghĩa cho rằng: “Các học giả đương đại khi áp dụng những thuật ngữ phương Tây vào nghiên cứu thời cổ đại cần phải có những kiến thức của thời hiện đại, và cũng phải biết chuyển hóa những trí tuệ cổ kim, với mục tiêu Trung Quốc và nước ngoài cùng hưởng. Cần nhất là phải có khả năng sáng tạo khi chuyển hóa những thuật ngữ hay từ ngữ có tính sáng chế. Như thế ngôn ngữ mới có thể chuyển tải được trí tuệ văn hóa”(28).
Cùng chú trọng với việc diễn dịch những thuật ngữ từ phương Tây vào Trung Quốc, Thân Đan trong bài Tựa của tập Ngả đường Trung Quốc của Tự sự học(29) đã nêu lên hiện trạng thói quen sử dụng những thuật ngữ được dịch từ nước ngoài về tiếng Trung. Ông cho rằng việc dịch thuật và sử dụng chúng không chính xác cũng gây nên những rối rắm, những sai lầm không đáng có đối với nghiên cứu tự sự học ở Trung Quốc.
Ví dụ việc dịch thuật ngữ narratologie (tự sự học) cũng gây ra những hiểu lầm đáng tiếc. Ông viết: “Các nhà nghiên cứu Trung Quốc vẫn quen chuyển dịch một số khái niệm “tự sự” narratologie (tiếng Pháp) và narratology (tiếng Anh) sang tiếng Trung thành 叙事学 (Tự sự học) và 叙述学 (Tự thuật học). Tuy nhiên khi áp dụng từng trường hợp cụ thể lại thấy có sự không nhất quán. “Tự sự (叙事) là một kết cấu động tân, chỉ hành vi giảng thuật (tự 叙) và đối tượng được kể (sự事); mà “tự thuật (叙述)” lại không thuộc dạng kết cấu, mà nhằm chỉ hành vi trùng lặp (tự 叙 + thuật述). “Tự thuật” có quan hệ mật thiết với “người tự thuật”, phù hợp ở tầng ngôn ngữ biểu đạt mà từ “tự sự” rất thích hợp cả hai tầng ngôn ngữ biểu đạt và kết cấu câu chuyện. Do vậy, ở một phạm vi ý nghĩa, narratology không nên chú ý vào nội dung câu chuyện mà là lời kể”(30).
Với hai cách hiểu như trên, Thân Đan chỉ ra: “Không khó để thấy, narratology ở định nghĩa thứ nhất nên được dịch là tự sự học(chỉ toàn bộ chỉnh thể tác phẩm), mà ở định nghĩa thứ hai narratology nếu được dịch là tự thuật học (thì chỉ tập trung vào những câu chữ tự thuật)”. Trên cơ sở đó, Thân Đan đề nghị “nên căn cứ vào trọng tâm của những phạm trù trong nghiên cứu để dịch là “tự sự học” hay “tự thuật học”. Nếu mục đích nghiên cứu đề cập đến sự biểu đạt của tự thuật, lại đề cập đến kết cấu của câu chuyện thì tốt nhất nên dịch là “tự sự học”(31).
3. Tiến đến nền Tự sự học mới
Đường đi nào cho nghiên cứu tự sự học của Trung Quốc là một vấn đề bức bối cho mỗi nhà tự sự học Trung Quốc đương đại với tâm thế đối thoại với thế giới. Đánh giá về nghiên cứu tự sự học kinh điển ở Trung Quốc, Thượng Tất Vũ trong bài tham luận ở Hội nghị quốc tế tự sự học lần 1 đã viết: “Trong những năm cuối thập kỉ 90 (thế kỉ XX), lí luận phương Tây lại quay lại nghiên cứu tự sự học với ba hướng chính: 1. Coi tự sự học đã chết và đề xuất nên thay thế tự sự học cũ bằng những lí thuyết tự sự mới; 2. Cho rằng tự sự học đã chuyển hóa thành tự sự học hậu chủ nghĩa cấu trúc; 3. Cho rằng tự sự học ngày nay nên dựa trên sự chú ý của độc giả và ngữ cảnh để làm tiêu chí cho hậu tự sự học (Tự sự học mới). Như thế, hai hướng sau không coi tự sự học đã chết, mà thực ra chúng đang trên bước chuyển sang hình thái tự sự mới. Tuy nhiên, rõ ràng cả hai hướng này đều cho rằng đã qua thời của tự sự học kinh điển.
Do môi trường chính trị văn hóa khác nhau và những khác biệt về con đường phát triển lí luận phê bình văn học, nghiên cứu tự sự học trong nước đối với học giới phương Tây đã lộ ra những hướng ngược, nghiên cứu tự sự học kinh điển mãi mãi không suy vong, nghiên cứu tự sự học hậu kinh điển còn chậm chạp chưa được coi trọng đúng mức. Những tác phẩm dịch và nghiên cứu tự sự học kinh điển phương Tây thường chỉ giới hạn trong khoảng những năm 80 của thế kỉ XX trở về trước. Hội nghị này một mặt làm rõ tự sự thi học kinh điển của nghiên cứu mô hình cấu trúc không hề lỗi thời, một mặt cho rằng khi giải thích tác phẩm cụ thể nên chú ý giải phóng những giới hạn của tự sự học kinh điển, chú ý mở rộng tầm nhìn và thành quả rộng rãi của tự sự học hậu kinh điển, điều đó có tác dụng vô cùng to lớn đối với việc tự sự thi học kinh điển dắt tay cùng tiến với tự sự học hậu kinh điển”(32).
Như vậy, nghiên cứu tự sự học kinh điển “không chết” mà là chuyển hướng đối tượng nghiên cứu. Lần đầu tiên có một hội thảo quốc tế được tổ chức tại Đức với chủ đề vận dụng khái niệm “tự sự học” vào những văn bản phi văn học. Như thế trên hình thức vẫn là tự sự học kinh điển nhưng đã được phát triển đến vận dụng các phạm trù tự sự vào thực tế. Các nhà tự sự học Trung Quốc thấy tự sự học kinh điển không nên là một dòng lí luận nhất nguyên mà nên là một vấn đề phức tạp và đa dạng, là sự tổng hợp của rất nhiều lí luận của các ngành tự sự học mới như tự sự học tu từ, tự sự học nữ tính, tự sự học nhận thức, tự sự học liên ngành, Bakhtin, chủ nghĩa giải cấu trúc, phê bình người đọc – trả lời (Reader-response criticism), phân tâm học, chủ nghĩa lịch sử, tu từ học, lí luận điện ảnh, khoa học máy tính, phân tích diễn ngôn (discourse analysis) cho đến (tâm lí) ngôn ngữ học,… đã khiến chính khái niệm tự sự học vốn là số ít (narratology) cũng đã trở thành số nhiều (narratologies).
Cũng phải nói đến một sự kiện được coi là một mốc quan trọng trong sự lựa chọn hướng đi mới cho nghiên cứu tự sự Trung Quốc là việc nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh xuất bản một bộ tùng thư sách dịch lí luận Tân tự sự trong năm 2002. Bộ sách với năm phương diện: chủ nghĩa giải cấu trúc, chủ nghĩa nữ tính, tu từ, hậu hiện đại và liên ngành đã giới thiệu những xu hướng cập nhật nhất về nghiên cứu tự sự học trên thế giới. Rõ ràng, việc xuất bản bộ tùng thư đã tăng sức hấp dẫn cho nghiên cứu tự sự học mới ở Trung Quốc.
Như thế, tính chất liên ngành của lí luận tự sự học hậu kinh điển đã thoát khỏi nghiên cứu các tác phẩm tự sự hư cấu trong truyền thống, hay chỉ thuần túy nghiên cứu tự sự học. Hơn nữa, những môn ngành nghệ thuật khác như âm nhạc, hội họa, pháp luật,… cũng đã có ảnh hưởng tạo nên những môn ngành mới trong nghiên cứu tự sự học như tự sự học âm nhạc, tự sự học hội họa, tự sự học pháp luật, tự sự học điện ảnh... Có thể thấy, nghiên cứu tự sự học Trung Quốc đã dần thoát khỏi những phạm vi “thiếu tính văn học” hay “thiếu tính văn thể” trong quá khứ bằng những bước tiến ngày càng tinh tế như nghiên cứu tự sự trong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, tiểu thuyết trinh thám, kịch, thơ ca, truyện kí…
Không chỉ có vậy, sự thành công của Hội nghị tự sự toàn quốc lần thứ tư và là Lần thứ nhất Quốc tế như trên đã nói cũng cho thấy sức hấp dẫn của nghiên cứu Tân tự sự học. Trong hội nghị này, các nhà nghiên cứu tự sự Trung Quốc rất chú ý tới hai tham luận của James Phenal - Chủ tịch hiệp hội nghiên cứu tự sự quốc tế, chủ biên tạp chí Tự sự - và Peter Rabinowitz - đại biểu sáng giá nhất đời thứ ba của phái Aristose Mới (New - Aristotelians). Phenal với bài tham luận Nguyên tắc đọc hiểu tu từ qua phân tích tác phẩm Thùng rượu vang (The Cask of Amontillado) của Poe, nhằm giải thích nguyên tắc chủ đạo “tự sự là hành vi giao tiếp có tính mục đích”. Cùng đề tài, Rabinowitz với tham luận Để hiểu được sắc thái tu từ: Âm nhạc phương Tây và lí thuyết tự sự đã giải thích tính tự sự của tu từ, từ những nguyên tắc nghiên cứu cho đến khả năng không gian của nó. Điểm xuất phát của Rabinowitz là từ tính hư cấu và góc độ tự thuật không đáng tin để nghiên cứu phương thức triển khai của các tác phẩm âm nhạc.
Không chỉ có vậy, từ góc độ của chủ nghĩa nữ quyền, Robyn Warhol với tham luận Hình thức và hành vi tình cảm: ảnh hưởng của giới tính đối với tự sự cho đến tự sự đối với giới tính(33) cũng giới thiệu tự sự theo hướng của chủ nghĩa nữ tính, từ việc nghiên cứu giới tính cho đến phân tích những hành vi giới tính của hình thức tự sự đã có ảnh hưởng như thế nào đối với độc giả. Bài tham luận này cho thấy sự hấp dẫn của hướng nghiên cứu tự sự học theo chủ nghĩa nữ tính. Một nguyên cớ khiến tự sự học nữ tính vẫn được phát triển cũng được bà chỉ ra. Đó là sự quay lại của tự sự học kinh điển. Theo bà, chính tự sự học chủ nghĩa nữ tính đã là một tiền đề quan trọng của tự sự học kinh điển, là những phát ngôn có tính cách mạng đối với tự sự học truyền thống. Suốt một thời gian dài, tự sự học chủ nghĩa nữ tính đã đặt điểm nhìn vào mối quan hệ giữa giới tính và tự sự. Nó nghiên cứu hình thức tự sự và kết cấu giới tính trong một hoàn cảnh văn hóa lịch sử cụ thể. Khi phân tích những ảnh hưởng của giới tính đối với tự sự, các nhà học giả trường phái tự sự học tính nữ đều để nói tới quá trình xây dựng nhân vật, những qui ước của tình tiết cho đến sự đan xen tự thuật.
Còn Sangeeta Ray (Khoa Văn học Anh ngữ, trường đại học Maryland, Mỹ) với tham luận Tự sự học chủ nghĩa hậu thực dân giải thích luân lý, đọc hiểu hoàn cảnh đã kết hợp chủ nghĩa hậu thực dân, chủ nghĩa nữ tính, luân lý học,… qua việc phân tích tác phẩm Thủy triều đói của Amitav Ghosh để giải thích sự song trùng thị giác của độc giả luân lý và “tính hoàn cảnh” để có thể đọc hiểu tác phẩm tự sự hậu thực dân….
Có thể thấy cả hai tác giả này đều dùng những luận điểm của hai nhà tự sự học hậu hiện đại, giáo sư trường đại học Ohio Mc. Hale - Chủ biên tạp chí Thi học ngày nay - và Brian Richardson - Thường vụ hiệp hội nghiên cứu tự sự học quốc tế, khoa Văn học Anh ngữ đại học Maryland, Mỹ. Cũng trong hội thảo đó, Mc Hale với tham luận Tự sự học của nghĩa đen hóa: cảm hứng mà truyện khoa học viễn tưởng mang lại từ một số tiểu thuyết khoa học viễn tưởng để tiến hành phân tích những mẫu tự sự, đặc biệt là những điểm nhìn mà tiểu thuyết khoa học viễn tưởng sử dụng. Cũng như Mc Hale, Brian Richardson với tham luận Những cách thức mới của tiến trình tự sự kịch đương đại đã khảo sát một số phương thức sắp xếp tình tiết trong kịch đương đại(34)…
Rõ ràng tự sự học mới với điểm xuất phát từ tự sự học kinh điển, trên cơ sở phê phán, kế thừa, đã có những thành công nhất định tại Trung Quốc. Trên thực tế, từ những bình diện của cơ sở phương pháp luận, vị trí đọc, bình diện tâm điểm chú ý, các phân phái nghiên cứu tự sự học mới có những lúc thậm chí đã bộc lộ những mâu thuẫn,... nhưng rõ ràng sự phê phán đó cũng chính là những động thái cần thiết để tân tự sự học tại Trung Quốc càng có động lực phát triển.
4. “Quay về với nguồn gốc”
Trong tâm thế đối thoại với thế giới, giới học giả Trung Quốc lại không ít người đề xuất việc nghiên cứu tự sự học trong văn học Trung Quốc. Từ việc kết hợp giữa lịch sử và tự sự đã chỉ ra những nguyên tắc biểu hiện khác nhau của những phương thức tư duy tự sự khác nhau nhằm phát huy những đặc trưng của trí tuệ tự sự Trung Quốc. Từ những khái niệm kết cấu tự sự, thời gian tự sự, góc nhìn tự sự, hình tượng tự sự, phê bình tự sự,… có nguồn gốc từ tự sự học của phương Tây đã chỉ ra những điểm khác biệt của thế giới tự sự Trung Quốc đối với phương Tây, nhằm tạo dựng những nguyên lý tự sự của Trung Quốc. Người đứng đầu của cách thức này là Dương Nghĩa. Qua cuốn sách Tự sự học Trung Quốc, Dương Nghĩa đề xuất hướng nghiên cứu với ba đối tượng: 1. Văn học tự sự cổ điển Trung Quốc; 2. Văn học tự sự đương đại Trung Quốc; 3. Văn học tự sự nước ngoài. Ông cho rằng, các nguyên tắc phương pháp để nghiên cứu những văn hiến tự sự Trung Quốc và lí luận tự sự của phương Tây phải được khái quát trong 8 chữ: hoàn nguyên (还原), tham chiếu (参照), quán thông (贯通) và dung hợp (融合). Điểm bắt đầu của chuỗi nguyên tắc đó là sự quay về (hoàn nguyên), tức quay về với khởi điểm của văn hóa Trung Quốc. Từ đó mới đối chiếu (tham chiếu) với các lí luận văn hóa của phương Tây, rồi xâu chuỗi (quán thông) văn sử cổ kim của Trung Quốc, từ đó mà kết hợp (dung hợp) để sáng tạo nên hệ thống lý luận mang bản sắc Trung Quốc.
Nguyên tắc mà Dương Nghĩa đề xướng đã nhận được sự ủng hộ của nhiều học giả Trung Quốc. Tiền Trung Văn nhận xét: “Dương Nghĩa từ hệ tư tưởng hiện đại và tự sự học của phương Tây đã cấu trúc nên một hệ lý thuyết mới. Thông qua thư tịch cổ đại Trung Quốc, tác giả đã tìm ra những mấu chốt quan trọng của văn hóa, của ngôn ngữ cũng như tập quán địa phương, từ đó mà giải mã được nhiều biểu tượng văn hóa khác nhau giữa Trung Quốc và phương Tây”(35). Học giả Đỗ Thư Doanh cũng dành không ít lời ngợi khen cho công trình: “Cuốn Tự sự học Trung Quốc của Dương Nghĩa là sự bổ sung nhất hạng cho những khoảng trống trong học thuật. Lần đầu tiên ông lập được cái đặc sắc của Trung Quốc, có thể bổ sung vào hệ thống tự sự học của phương Tây. Cuốn sách thực sự rất có giá trị thực tiễn và đầy tính phát minh”(36).
Tóm lại, nghiên cứu tự sự học là một quá trình liên tục, từ giới thiệu, dịch thuật, phê bình, áp dụng để có thể thiết lập nền lí luận tự sự của chính mình là một nỗ lực không ngừng của các học giả Trung Quốc. Để có thể có một vị trí độc lập khả dĩ đối thoại được với phương Tây, họ xác định đường lối nên bắt nguồn từ những yếu tố bản địa, cố tìm cho ra những tinh túy của văn hóa truyền thống, so sánh với những đặc tính của ngôn ngữ hay ngữ âm dân tộc để từ đó tiến hành đối chiếu với những tập quán văn hóa của phương Tây. Mục tiêu hướng đến trước hết nhằm đáp ứng được đời sống thực tế của nền văn học, văn hóa đương đại Trung Quốc, từ đó mới có thể độc lập đối thoại với thế giới hiện đại. Những tiếng nói đầy thuyết phục ở những cuộc hội thảo tự sự học quốc tế được tổ chức ở Trung Quốc đã khiến lí luận tự sự học thế giới thêm một phong vị mới lạ. Công lao đó rõ ràng không thể phủ nhận sức nghiên cứu miệt mài với những bước đi chắc chắn, đáng khâm phục các nhà nghiên cứu tự sự học Trung Quốc1
____________
(1) Tiền Trung Văn: Lời nhận xét của chuyên gia cuốn Trung Quốc tự sự học của Dương Nghĩa, bản tái bản lần 1, Nxb. Nhân dân, Bắc Kinh, 2009, tr.455.
(2) Từ Đại: Tiểu thuyết tự sự học, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh, 1992.
(3) Phố An Địch: Trung Quốc tự sự học, Nxb. Đại học Bắc Kinh, 1996.
(4) La Cương: Tự sự học đạo luận, Nxb. Nhân dân Vân Nam, 1997.
(5) Dương Nghĩa: Trung Quốc tự sự học, Nxb. Nhân dân, Bắc Kinh, 1997.
(6) Thân Đan: Tự sự học dữ tiểu thuyết văn thể học nghiên cứu, Nxb. Đại học Bắc Kinh, 2004.
(7) Nam Chí Cương: Tự sự đích cuồng hoan hoa thẩm mỹ dích biến dị – tự sự học dữ Trung Quốc đương đại tiên phong tiểu thuyết, Nxb. Hoa Hạ, Bắc Kinh, 2006.
(8) Wayne Booth: The Rhetoric of Fiction (小说修辞学 – Tiểu thuyết tu từ học), Hoa Minh, Hồ Hiểu Tô, Chu Hiến dịch, Nxb. Đại học Bắc Kinh, 1987.
(9) Gérard Genette: Figures III; Discours du récit: Nouveau discours du récit (叙事话语新叙事话语), Vương Văn Dung dịch, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh, 1990.
(10) Shlomith Rimon-Kenan: Narrative Fiction: Contemporary Poetics (叙事虚构作品:当代诗学), Lại Can Kiên dịch, Nxb. Đại học Hạ Môn, Phúc Kiến, 1991.
(11) Mieke Bal: Narratology: Introduction to Narrative Theory (叙述学:叙事理论导论), Đàm Quân Cường dịch, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh, 2003.
(12) Martin Wallace: Recent theories of narrative (当代叙事学), Ngũ Hiểu Minh dịch, Nxb. Đại học Bắc Kinh, 2005.
(13) David Herman (chủ biên): Narratologies, (新叙事学), Mã Hải Lương dịch, Nxb. Đại học Bắc Kinh, 1999.
(14) Wallace Martin: Recent theories of narrative (当代叙事学), Ngũ Hiểu Minh dịch, Nxb. Đại học Bắc Kinh, 2005.
(15) Mark Currie: Postmodern Narrative Theory (后现代叙事理论), Đinh Nhất Trung dịch, Nxb. Đại học Bắc Kinh, 2003.
(16) James Phelan: Narrative as Rhetoric: Technique, Audiences, Ethics, Ideology (作为修辞的叙事:技巧、读者、伦理、意识形态), Trần Vĩnh Quốc dịch, Nxb. Đại học Bắc Kinh, 2002.
(17) Dẫn theo Lê Thời Tân: Tự sự học: Tên gọi, lược sử và một số vấn đề lí thuyết, (http://www.vienvanhoc.org.vn/reader/?id=515&menu=74)
(18), (19), (20) Dẫn theo Đường Vĩ Thắng: Tình hình nghiên cứu tự sự học Trung Quốc giai đoạn 1999-2002 trên một số báo chuyên ngành. Xem trên trang web: http://ch.shvoong.com/humanities/771814
(21) Tổ Quốc Tụng (chủ biên): Tự sự học đích Trung Quốc chi lộ, Nxb. Khoa học xã hội Trung Quốc, Bắc Kinh, 2006.
(22), (23) Tổ Quốc Tụng (chủ biên): Lời tựa cuốn Tự sự học đích Trung Quốc chi lộ. Sđd, tr.2-3.
(24) Dương Nghĩa: Tự sự học Trung Quốc, Lời cuối bản tái bản 2009, Nxb. Nhân dân, Bắc Kinh, 2009, tr.462.
(25) Flashback (còn gọi là analepsis, số nhiều là analepses) là một cảnh xen vào đó có những câu chuyện trở lại trong thời gian từ điểm hiện tại đã đạt đến câu chuyện. Hồi tưởng thường được sử dụng để kể lại sự kiện xảy ra trước khi trình tự chính của câu chuyện về các sự kiện hoặc điền vào đằng sau các câu chuyện quan trọng.
(26) Ví dụ, một nhân vật người sắp chết có thể được mô tả như "người chết" trước khi ông ta chết thực sự.
(27), (28) Dương Nghĩa: Tự sự học Trung Quốc, Sđd, tr.457.
(29) Tự sự học đíchTrung Quốc chi lộ, Sđd, tr.1.
(30) Thân Đan: Lời tựa cuốn Tự sự học đíchTrung Quốc chi lộ, Sđd, tr.1.
(31) Tự sự học đíchTrung Quốc chi lộ, Sđd, tr.2
(32) Thượng Tất Vũ: Hậu kinh điển tự sự học đích nghiên cứu thái thế cập kì đái lai đích khảo lự, Tham luận Hội thảo Tự sự học toàn quốc lần 3 tại Nam Xương, 2007.
(33) Robyn Warhol – Down được coi là người lĩnh xướng của tự sự học nữ tính chủ nghĩa, hiện là chủ nhiệm khoa văn học Anh ngữ trường đại học Vermont, nguyên Chủ tịch Hội Nghiên cứu tự sự học quốc tế. Bà chủ yếu nghiên cứu về Phê bình văn học nữ tính chủ nghĩa và văn học Anh Mỹ thế kỉ XIX.
(34) Một thông tin mới nhất mà chúng tôi mới cập nhật là vào tháng 10 năm 2009, một hội thảo quốc tế về tự sự học lần thứ hai và là lần thứ tư toàn quốc lại được tổ chức ở Trùng Khánh, với chủ đề Tự sự học trong bối cảnh mới (NVN).
(35), (36) Dương Nghĩa: Tự sự học Trung Quốc, Sđd. tr.457.
([*]) ThS - Viện Nghiên cứu Trung Quốc.
http://vienvanhoc.vass.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/ChuyenDe/View_Detail.aspx?ItemID=17
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét