Tóm tắt:
Trải qua gần 40 năm, nghiên cứu Tự sự
học ở Trung Quốc đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo nên một tiếng nói
riêng trong nghiên cứu tự sự học thế giới. Bài viết không đặt trọng tâm ở việc
tái hiện tỉ mỉ bức tranh Tự sự học ở Trung Quốc, mà chủ yếu tập trung giới thiệu
những hướng đi riêng, có sức gợi mở. Trên cơ sở dịch, giới thiệu, cập nhật những
thành tựu nghiên cứu tự sự học ở phương tây, các học giả Trung Quốc xác lập hướng
nghiên cứu riêng, như: Tự sự học văn thể, Tự sự học so sánh, Tự sự học văn hóa
thẩm mĩ, Tự sự học không gian, Tự sự học nghĩa rộng, và Tự sự học Trung Quốc.
Từ
khóa: Tự sự học, Trần thuật học, Trung Quốc, Lí luận văn học
1. Dẫn nhập
Trong một thời gian dài (1949-1978) nghiên cứu văn học Trung
Quốc chủ yếu chịu ảnh hưởng của học thuật Liên Xô. Khi Trung Quốc cải cách mở cửa
thì lí luận phê bình văn học phương Tây nói chung và Tự sự học nói riêng đã đi
được một chặng đường khá xa. Để có thể nhanh chóng bắt nhịp được với nghiên cứu
Tự sự học ở phương Tây, học giả Trung Quốc không ngừng nỗ lực tiến hành dịch
thuật, giới thiệu những thành tựu quan trọng của Tự sự học trên thế giới. Năm
1979, Viên Khả Gia đã lần đầu tiên giới thiệu Tự sự học với giới nghiên cứu
trong nước qua bài viết Sáng tác
và lí luận văn học trường phái hiện đại Âu – Mỹ (Tạp chí Khoa học
học viện Sư phạm Hoa Đông, số 6 năm 1979) đã mở ra chặng đường đầu tiên trong
nghiên cứu Tự sự học ở Trung Quốc – chặng dịch giới thiệu. Sau đó, công trình dịch
giới thiệu tự sự học phương Tây ngày một nhiều, các đại diện tiêu biểu của tự sự
học kinh điển như Roland Barthes, Lévi-Strauss, Todorov, Gérard Genette… đều lần
lượt được dịch sang tiếng Trung. Học giả Trung Quốc cũng nhanh chóng nắm bắt
các động thái mới nhất của nghiên cứu văn học phương Tây. Bên cạnh Tự sự học
kinh điển, họ đã chú ý đến Tự sự học hậu kinh điển và Tự sự học hậu cấu trúc tạo
nền tảng quan trọng cho tiến hành nghiên cứu trên phương diện lí thuyết và vận
dụng vào thực tiễn nghiên cứu văn học.
Trên cơ sở dịch các trước tác kinh
điển của Tự sự học phương Tây, các học giả Trung Quốc đã triển khai thảo luận
trên phương diện lí luận về các vấn đề như phạm trù, thuật ngữ, khái niệm,
nguyên lí cho đến bản chất, đối tượng nghiên cứu… của Tự sự học như Dẫn luận tự sự học của La Cương, Tự sự học và nghiên cứu thể loại tiểu thuyết
của Thân Đan, Khi người nói bị nói –
dẫn luận tự sự học so sánh của Triệu Nghị Hành, Tự sự học tiểu thuyết của Từ
Đại, Tự sự học của Đổng Tiểu Anh, Bàn về nghệ thuật tiểu thuyết của Ngô Hiệu
Cương, Lí luận tự sự và văn hóa thẩm mĩ của
Đàm Quân Cường, Thi học của tự sự của
Tổ Quốc Tụng, Tự sự học điện ảnh, lí luận
và thực tiễn của Lý Hiển Kiệt…
Có thể thấy, đến nay, trong lĩnh vực
Tự sự học, giới nghiên cứu Trung Quốc đã bắt nhịp được với nghiên cứu Tự sự học
trên thế giới. Họ không chỉ cập nhật giới thiệu, nghiên cứu những thành tựu
nghiên cứu tự sự học mới nhất ở phương Tây, mà còn tìm ra một số hướng đi, góp
tiếng nói về mặt nghiên cứu lí thuyết, khắc phục tình trạng “thất ngữ” trong lí
luận văn học. Đến nay, giới nghiên cứu Trung Quốc đã đề xuất 5 hướng nghiên cứu
Tự sự học, đó là: Tự sự học thể loại, Tự sự học so sánh, Tự sự học văn hóa thẩm
mĩ, Tự sự học không gian, Tự sự học nghĩa rộng.
2. Nội dung
2.1. Tự sự học văn thể
Người đề xướng nghiên cứu Tự sự học kết hợp với nghiên cứu văn
thể là nữ học giả Thân Đan. Trong công trình Tự sự học và nghiên cứu văn thể học tiểu thuyết [1](1998)
bà chỉ ra, sở dĩ có thể kết hợp hai hướng nghiên cứu này, là vì mặc dù chúng có
sự khác biệt, nhưng lại có điểm trùng hợp trên phương diện đối tượng nghiên cứu,
đều dùng mô hình ngôn ngữ để nghiên cứu tác phẩm văn học. Trong lời tựa cuốn
sách, bà cho rằng, “trên phương diện kĩ thuật hình thức tiểu thuyết, “ngôn từ’
và “văn thể” có quan hệ bổ sung, chú ý đến cả hai thứ thì mới có thể nghiên cứu
tương đối toàn diện kĩ thuật hình thức tiểu thuyết. Giữa “ngôn từ” và “văn thể”
có hai phương diện trùng hợp quan trọng: Điểm nhìn trần thuật và phương thức
khác nhau trong biểu đạt lời nói của nhân vật. Nhà Tự sự học và nhà Văn thể học
đều chú ý đến góc độ trần thuật. Nhưng nếu như nhà Tự sự học chú ý đến phân loại
loại hình điểm nhìn, thì nhà Văn thể học lại chú trọng đến điểm nhìn do câu từ
cụ thể thể hiện ra; nếu nhà Tự sự học chú ý dến góc độ quan sát, thì nhà Văn thể
học lại chú ý “điểm nhìn” trong văn bản, tức là quan điểm lập trường được biểu
đạt qua câu chữ. Bà cho rằng, nhà Tự sự học hứng thú với các hình thức biểu đạt
lời nói của nhân vật như “dẫn ngữ trực tiếp”, “dẫn ngữ gián tiếp”, là vì những
hình thức này là công cụ quan trọng điều tiết khoảng cách trần thuật. Họ không
hứng thú với bản thân đặc trưng ngôn ngữ, mà chủ yếu hứng thú với quan hệ giữa
người trần thuật (và người tiếp nhận trần thuật) với đối tượng trần thuật.
Trong khi đó, nhà Văn thể học lại hứng thú với bản thân sự lựa chọn ngôn ngữ,
cho nên, khi phân tích, họ chú trọng đặc trưng biểu đạt của ngôn ngữ. Ngay khi
phân tích tiết tấu, thì nhà nghiên cứu thể loại thường chú ý đến tiết tấu của bản
thân câu chữ, loại tiết tấu được tạo nên từ sự sử dụng tiêu điểm, sự giao thoa
giữa câu ngắn và câu dài, giữa trọng âm và phi trọng âm; còn nhà tự sự học khi
phân tích tiết tấu tiểu thuyết lại chú ý đến tiết tấu trần thuật dược tạo ra bởi
sự thay thế lẫn nhau giữa các phương thức tự sự, như phương thức triển khai sự
kiện một cách chi tiết tạo tiết tấu chậm, hay phương thức tổng kết sự kiện tạo
tiết tấu nhanh.
Năm 2006 Thân Đan tiếp tục khẳng định
hướng nghiên cứu này trong bài viết Bổ
sung và vay mượn lẫn nhau giữa Văn thể học và Tự sự học[2].
Bà cho rằng Văn thể học vay mượn Tự sự học là tất yếu, và có thể có những
cách vay mượn như sau: Dùng khái niệm hoặc mô hình của Tự sự học để làm khung
phân tích văn thể, như “điểm nhìn”, “thời tự”, “xây dựng nhân vật”… Chẳng hạn,
vấn đề “điểm nhìn”, vốn có hai nội hàm: nội hàm thứ nhất chỉ góc độ cảm tri,
góc độ thị giác khi trần thuật, tác động trực tiếp tới sự kiện; nội hàm thứ hai
chỉ quan điểm, lập trường, giọng điệu, được biểu đạt qua câu chữ, và tác động
gián tiếp tới sự kiện. Các nhà Tự sự học thường quan tâm đến nội hàm thứ nhất,
còn các nhà Văn thể học lại thường quan tâm đến nội hàm thứ hai. Cần thiết phải
bổ sung cho nhau, bởi vì, “điểm nhìn” trên phương diện kết cấu thuộc về vấn đề
phi ngôn ngữ, nhưng trong văn bản lại thường chỉ có thể được thể hiện ra thông
qua đặc trưng ngôn ngữ.
Thân Đan được coi là nhân
vật tiêu biểu cho giới nghiên cứu Tự sự học Trung Quốc. Sau cuốn Tự sự học và nghiên cứu văn thể tiểu thuyết,
bà còn tiếp tục phát triển hướng nghiên cứu này qua các công trình Nghiên cứu lí luận tự sự tiểu thuyết Anh Mĩ
(viết chung, 2005), Tự sự, văn bản và tiềm
văn bản – đọc lại truyện ngắn kinh điển Anh Mĩ (2009). Cùng với việc đề xướng
hướng nghiên cứu kết hợp Tự sự học và Văn thể học, Thân Đan đã đề xướng phương
pháp đọc kĩ. Phương pháp đọc kĩ vốn là phương pháp do Phê bình mới đề xướng vào
nửa đầu thế kỉ 20, nhưng từ những năm 80, sau chuyển hướng phê bình chính trị,
văn hóa, phương pháp đọc kĩ bị coi là lạc hậu. Nhưng sang thế kỉ 21, khi hướng
nghiên cứu văn hóa chính trị có xu hướng giảm nhiệt, thì không ít học giả lại dần
dần phục hưng phương pháp này. Phương pháp đọc kĩ do Thân Đan đề xuất lấy văn bản
làm cơ sở, tăng cường khảo sát tổng hợp tác động tương hỗ giữa các thành phần
trong tác phẩm, giữa tác phẩm và ngữ cảnh, và khảo sát liên văn bản. Đồng thời,
đọc kĩ vừa chú ý đến sử dụng câu từ, vừa chú ý đến sách lược tự sự, kết cấu tự
sự; khảo sát kĩ vai trò của bộ phận trong chỉnh thể tác phẩm… Tóm lại, đọc kĩ
như Thân Đan đề xuất là kết hợp giữa đọc vi mô và đọc vĩ mô, giữa đọc trong văn
bản và đọc liên văn bản, giữa phân tích tác phẩm và chú ý đến ngoại cảnh[3].
2.2. Tự sự học so sánh
Tự sự học so sánh ra đời như một tất yếu khi du nhập Tự sự học
phương Tây vào Trung Quốc. Bởi vì, ngay cả khi một số học giả Trung Quốc không
trực tiếp đưa ra thuật ngữ “tự sự học so sánh”, thì trong cách làm của họ cũng
đã biểu hiện ít nhiều hướng nghiên cứu này. Chẳng hạn như Dương Nghĩa trong cuốn
Tự sự học Trung Quốc (1997) mặc dù
không đề xuất khái niệm, nhưng việc so sánh kinh nghiệm và lí luận tự sự Trung
Quốc và phương Tây, về cơ bản là nhất trí với phương hướng nghiên cứu Tự sự học
so sánh. Các học giả Trung Quốc cho rằng họ rất có lợi thế trong việc phát triển
Tự sự học so sánh. Bởi vì trong học thuật phương Tây, tư tưởng coi phương Tây
là trung tâm đã hạn chế các học giả hướng sang phương Đông, ngay trong lĩnh vực
văn học so sánh, thì họ cũng chủ yếu so sánh giác các nền văn học trong phạm vi
phương Tây. Trong khi đó, giới nghiên cứu tự sự học Trung Quốc lại am hiểu cả
lí luận và thực tiễn văn học phương Tây, cộng thêm hiểu biết sâu sắc về truyền
thống lí luận và thực tiễn văn học trong nước.
Học giả Trung Quốc thực sự ý thức
xây dựng hướng nghiên cứu Tự sự so sánh mới chỉ khoảng 10 năm gần đây. Năm
2006, Xa Cẩn Sơn lần đầu tiên đề xuất có thể xây dựng Tự sự học so sánh trong
bài viết Ý tưởng về Tự sự học so sánh[4].
Hưởng ứng chủ trương đó, Đàm Quân Cường đã có một loạt công trình, như: Tự sự học so sánh: Một trong những con đường
nghiên cứu tự sự học Trung Quốc[5]
(2010) …Các học giả Trung Quốc cho rằng Tự sự học so sánh là một trong những
con đường quan trọng để xây dựng Tự sự học Trung Quốc, và làm cho nghiên cứu Tự
sự học ở Trung Quốc có một vị trí nhất định trong nghiên cứu Tự sự học thế giới.
Theo Xa Cẩn Sơn, lí do tồn tại của Tự
sự học so sánh là sự thực tồn tại sự
tương đồng, khác biệt giữa Tự sự học Trung Quốc và phương Tây. Chẳng hạn, trong
nghiên cứu Tự sự học phương Tây, yếu tố thời gian chiếm vị trí quan trọng, và
văn học truyền thống Trung Quốc cũng đầy cảm thức thời gian qua những miêu tả về
tứ thời, sự hưng – vong, nỗi tiếc xuân, hoài cổ. Nhưng quan trọng hơn trong
nghiên cứu Tự sự học so sánh là chỉ ra sự khác biệt, chẳng hạn như Trung Quốc
thường mượn hình tượng không gian để thể hiện thời gian. Nguyên nhân tạo ra sự
khác biệt đó nằm ở thi học cổ điển, quan niệm văn chương, truyền thống văn hóa.
Đàm Quân Cường đã đưa ra một số lưu
ý khi tiến hành nghiên cứu Tự sự học so sánh như sau: Thứ nhất, Tự sự học so sánh nghiên cứu so sánh tác phẩm tự sự và lí
luận tự sự giữa các hệ thống văn hóa và ngôn ngữ khác nhau. Nó cố gắng tìm ra sự
tương đồng khác biệt giữa tác phẩm tự sự và lí luận tự sự ở các hệ thống văn
hóa và ngôn ngữ khác nhau, đồng thời chỉ ra nguyên nhân văn hóa, tập tục, tâm
lí, xã hội tầng sâu tạo nên những tương đồng khác biệt đó. Do đó, có thể mượn
lí luận và phương pháp của Văn học so sánh để nghiên cứu Tự sự học so sánh,
nhưng cần lưu ý, nó là nghiên cứu tự sự đích thực, chứ không phải là nghiên cứu
Văn học so sánh. Thứ hai, Tự sự học
so sánh trên cơ sở lí luận Văn học so sánh và Tự sự học, hướng tới tìm tòi
nghiên cứu tác phẩm và lí luận tự sự cổ đại, hiện đương đại Trung Quốc trong thế
so sánh với lí luận và tác phẩm văn học nước ngoài. Thứ 3, Đối tượng nghiên cứu của Tự sự học so sánh đương nhiên là
song phương hoặc đa phương. Trong thực tiễn hiện nay, với Tự sự học so sánh ở Trung
Quốc, thì sự lựa chọn tốt nhất về đối tượng nghiên cứu vẫn là lí luận và tác phẩm
tự sự của Trung Quốc và phương Tây[6].
Nhìn chung, tự sự học so sánh là hướng
nghiên cứu kết hợp phương pháp nghiên cứu của Tự sự học và phương pháp nghiên cứu
của Văn học so sánh. Ngay khi các nhà nghiên cứu vận dụng lí luận tự sự học
phương Tây vào nghiên cứu các tác phẩm tự sự cụ thể của Trung Quốc với ý thức
tìm ra nét đặc sắc của tự sự Trung Quốc thì về cơ bản họ đã đi theo hướng Tự sự
học so sánh rồi. Nhưng khi nâng lên thành một hướng so sánh với định hướng lí
thuyết cụ thể, thì hướng nghiên cứu này sẽ gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng
hơn.
2.3. Tự sự học
văn hóa thẩm mĩ
Nghiên cứu Tự sự học từ những năm 90 trở lại đây đã vượt ra
ngoài nghiên cứu khép kín trong văn bản trần thuật, nó đã kết nối với nhiều yếu
tố bên ngoài, giao lưu với nhiều phương pháp khác nhau. Tự sự học hậu kinh điển
mở rộng quan hệ giữa văn bản và ngữ cảnh, mở rộng phạm trù nghiên cứu của Tự sự
học kinh điển. Trong bối cảnh học thuật xuất hiện nhiều phân nhánh của Tự sự học,
Đàm Quân Cường đề xuất một hướng nghiên cứu, đó là Tự sự học văn hóa thẩm mĩ với
một loạt bài viết như: Sự phát triển của
lí luận tự sự và tự sự học văn hóa thẩm mĩ (2002)[7],
Lí luận tự sự trong ngữ cảnh nghiên cứu
văn hóa (2003)[8]…,
đặc biệt là cuốn Tự sự học văn hóa thẩm
mĩ: lí luận và thực tiễn[9].
Đàm Quân Cường cho rằng, có thể tiến hành phân tích, nghiên cứu đối tượng văn học
nghệ thuật từ các phương diện như lịch sử xã hội, tâm lí tinh thần, tích lũy
văn hóa… Tự sự học văn hóa thẩm mĩ là sự kết hợp giữa Tự sự học và Văn hóa thẩm
mĩ, nhưng phải giữ phương hướng phát triển chung của lí luận tự sự. Tự sự học
văn hóa thẩm mĩ mở rộng phạm vi nghiên cứu, vượt qua tác phẩm tự sự hoặc văn bản
trần thuật trên ý nghĩa thuần túy, mở rộng phạm vi đến tác phẩm tự sự trên ý
nghĩa văn hóa – bất luận là tác phẩm tự sự này xuất hiện với hình thức phương
tiện nào. Tức là ngoài tác phẩm tự sự lấy ngôn ngữ làm phương tiện, thì còn có
thể bao gồm cả tác phẩm âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điện ảnh, vũ đạo…, chỉ cần
trong những tác phẩm này có ý nghĩa “trần thuật”. Tất nhiên, trên ý nghĩa thực
tiễn, sản phẩm văn hóa lấy ngôn ngữ làm phương tiện vẫn chiếm vị trí quan trọng
trong đối tượng nghiên cứu.
Về phương pháp nghiên cứu, Tự sự học
văn hóa thẩm mĩ tiến hành nghiên cứu thẩm mĩ trên ý nghĩa văn hóa đối với văn bản
trần thuật theo nghĩa rộng. Theo Đàm Quân Cường, nghiên cứu Tự sự học truyền thống
yêu cầu người nghiên cứu sử dụng thái độ khách quan để nghiên cứu đối tượng,
miêu tả khách quan hình thức kết cấu và ngữ pháp trần thuật của tác phẩm văn học.
Cách này vô tình né tránh phán đoán giá trị thẩm mĩ vốn rất phong phú trong bất
kì tác phẩm tự sự nào. Còn Tự sự học văn hóa thẩm mĩ lại tìm kiếm ý nghĩa giá
trị thẩm mĩ tồn tại trong văn bản trần thuật, để hướng tới ý nghĩa xã hội, tư
tưởng, ý thức, tâm lí, tức là ý nghĩa văn hóa trên nghĩa rộng. Tự sự học văn
hóa thẩm mĩ rất coi trọng tìm hiểu cái đẹp hình thức nghệ thuật, tìm ra bản chất
lịch sử xã hội ẩn tàng trong hình thức đó. Khi nghiên cứu văn bản “nói như thế
nào” thì cũng cần nghiên cứu vấn đề “vì sao lại nói như vậy”. Chẳng hạn, trong
tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc, người trần thuật thường xuất hiện với ngôi
thứ ba, tiến hành trần thuật trên lập trường toàn tri. Điều này không tách rời
quan niệm đạo đức “trung dung” trong truyền thống Trung Quốc. Công khai, trực
tiếp, tường tận nói về bản thân là không phù hợp với phương thức tư duy và thói
quen thẩm mĩ của Trung Quốc truyền thống, cũng không phù hợp với quan niệm đạo
đức truyền thống. Tự sự học văn hóa thẩm mĩ cũng chú ý đến nghiên cứu tâm lí
tinh thần, thể nghiệm thẩm mĩ của người sáng tác và người tiếp nhận. Nghiên cứu
Tự sự học văn hóa thẩm mĩ cũng chú ý đến tầng diện tích lũy văn hóa. Không phải
ngẫu nhiên, mỗi quốc gia, khu vực trong bối cảnh văn hóa lịch sử khác nhau thường
có một số hình thức văn học nghệ thuật nhất định, hoặc một số đặc điểm hình thức
riêng. Chuyên luận Tự sự học văn hóa thẩm
mĩ: lí luận và thực tiễn Đàm Quân Cường đã thể hiện một cách có hệ thống ý
tưởng lí luận về tự sự học văn hóa thẩm mĩ, thông qua phương thức kết hợp giữa
lí luận và phân tích tác phẩm tự sự, nghiên cứu một số vấn đề liên quan như người
trần thuật và hình thái ý thức, tiêu cự trần thuật và ý thức giới tính, văn bản
và ngữ cảnh… Chuyên luận chú ý đến chức năng tư tưởng của điểm nhìn, hình thái
ý thức của điểm nhìn, quan hệ giữa hình thái ý thức và vấn đề được trình bày
trong tác phẩm thông qua người trần thuật. Đồng thời cũng quan tâm đến quan hệ
giữa tiêu cự trần thuật và ý thức giới, lí giải nguyên nhân dẫn đến sự khác
nhau về cốt truyện, ngôn từ và tiêu cự trần thuật từ vấn đề tâm lí, địa vị văn
hóa xã hội của phụ nữ…
Thực ra, về việc kết hợp nghiên cứu
hình thức và nghiên cứu văn hóa trong nghiên cứu Tự sự học, Triệu Nghị Hành đã
chú ý đến từ khá sớm qua cuốn Người trần
thuật khổ não – Hình thức tự thuật và văn hóa Trung Quốc của tiểu thuyết Trung
Quốc (1994), Khi người nói bị nói: Dẫn
luận tự thuật học so sánh (1998). Ông
đã chỉ ra: Ý nghĩa của hình thức tự sự nằm ở một biểu trưng nào đó của văn hóa,
chỉ có thâm nhập vào tầng sâu văn hóa dân tộc mới có thể nhận thức và lí giải
sâu hơn. Sau này, khi nghiên cứu về Tự sự học, ông luôn thông qua hình thức để
thâm nhập vào tầng vỉa văn hóa xã hội. Có thể thấy, Tự sự học văn hóa hình thức
như một phân nhánh của tự sự học hậu kinh điển. Việc kết hợp giữa tự sự học và
nghiên cứu văn hóa thẩm mĩ đã mở rộng phạm vi, giới hạn của Tự sự học kinh điển,
mang lại kết quả nghiên cứu nhất định.
2.4. Tự sự học không gian
Tự sự học không gian được đề
xuất ở Trung Quốc trong bối cảnh nghiên cứu văn học trên thế giới có bước chuyển
hướng không gian tương đối rõ nét, với những công trình như Thi học không gian của Bachelard, Sự sản xuất của không gian của Henri
Lefebvre, Thực tiễn đời sống thường nhật của
Michel de Certeau, Hậu hiện đại địa lí học
của Edward Soja… Trong lĩnh vực nghiên cứu lí luận Tự sự học không gian,
thành tựu lớn nhất là Long Địch Dũng. Từ năm 2003 đến nay, ông công bố 11 bài
nghiên cứu và một luận án về vấn đề Tự sự học không gian. Ở Trung Quốc, ông là
người đầu tiên xác định phạm trù và nội dung cơ bản của Tự sự học không gian.
Trong bài viết Tự sự học không gian –
lĩnh vực mới của nghiên cứu tự sự học[10],
ông khẳng định nghiên cứu đặc tính không gian của tiểu thuyết hiện đại và hậu
hiện đại thế kỉ 20 là điều cần thiết, bởi vì những tiểu thuyết này đã phá vỡ
quy luật tuyến tính thời gian, mang nhiều đặc tính không gian.
Hưởng ứng đề xướng nghiên cứu tự sự
học không gian, Trương Thế Quân có đóng góp không nhỏ trong việc vận dụng lí
thuyết vào phân tích văn bản. Ông công bố 8 bài viết vận dụng lí luận tự sự học
không gian vào nghiên cứu Hồng lâu mộng và các tiểu thuyết Minh Thanh khác.
Ngoài ra, cũng rất nhiều nhà nghiên cứu dùng công cụ lí luận để giải phẫu tác
phẩm văn học nước ngoài. Ví dụ như bài viết của Trình Tích Lân Bàn về tự sự
không gian trong The great Gatsby.
Bài viết này từ không gian địa chí, không gian xã hội và không gian văn bản
nghiên cứu các chiều kích không gian trong The
great Gatsby của F. Scott Fitzgerald.
Nói chung, nghiên cứu tự sự học
không gian ở Trung Quốc mới chỉ dừng ở việc bàn về nội dung và hàm nghĩa của
khái niệm này, về quan hệ giữa không gian và thời gian, về tầm quan trọng của
hướng nghiên cứu. Tuy nhiên, với thời gian xuất hiện ngắn, (khoảng trên dưới 10
năm), Tự sự học không gian vẫn đang trong quá trình tìm kiếm khung lí luận, xây
dựng cơ sở lí thuyết và có nhiều triển vọng.
2.5. Tự sự học nghĩa rộng
Tự sự học nghĩa rộng có thể coi là một hướng đột phá mới
trong nghiên cứu Tự sự học ở Trung Quốc với sự táo bạo trong tư tưởng học thuật
của Triệu Nghị Hành. Ông đề xuất Tự sự học nghĩa rộng với tham vọng phá vỡ lối
nghĩ mang tính chất thụ động của không ít học giả Trung Quốc - đó là lối nghĩ:
về lí thuyết, phải chờ phương Tây nói đã, rồi mình mới nói.
Thuật ngữ Tự sự học nghĩa rộng đã được
nhắc đến trong cuốn Tự sự học (2001)
của Đổng Tiểu Anh, chỉ có điều, nó được nêu lên như một khái niệm đối lập với
“tự sự học nghĩa hẹp”, nhưng nội hàm của nó vẫn là tri thức của các ngành khoa
học khác phục vụ nghiên cứu văn học, và về cơ bản vẫn chưa phá vỡ được biên giới
của nghiên cứu văn học. Sau đó, Phan Văn Mộc trong Lí luận về mô hình trần thuật trong Tả truyện (2004) đã mở rộng nội
hàm khái niệm khi đặt lịch sử vào vị trí trung tâm của tự sự chứ không phải để
hỗ trợ cho nghiên cứu tự sự tiểu thuyết. Đến Triệu Nghị Hành với bài viết Sau “bước ngoặt trần thuật” – tính khả năng
và tính tất yếu của trần thuật học nghĩa rộng (2008)[11],
thì nội hàm khái niệm đã mở rộng sang phạm vi của các ngành khoa học, phá vỡ
giới hạn của mô hình tự sự tiểu thuyết. Năm 2013 ông xuất bản cuốn Tự sự học nghĩa rộng[12],
bước đầu xây dựng khung thi học của Tự sự học nghĩa rộng. Trong công trình này,
các khái niệm về trần thuật, thời gian, tác giả hàm ẩn… đều có những nét nghĩa
mới. Có người đã cho rằng, Tự sự học nghĩa rộng là giai đoạn thứ ba sau giai đoạn
kinh điển và hậu kinh điển của Tự sự học. Bởi vì theo Triệu Nghị Hành, cái gọi
là Tự sự học hậu kinh điển thực ra vẫn là lấy tiểu thuyết làm hạt nhân, và hấp
thu thành tựu của các trần thuật khác.
Để xây dựng được Tự sự học nghĩa rộng,
Triệu Nghị Hành thay đổi định nghĩa về trần thuật, và cho rằng cần phải phá vỡ
tính quá khứ vốn là cơ sở của tự sự học tiểu thuyết. Ông kiến nghị, chỉ cần giảng
thuật thỏa mãn hai điều kiện sau thì chính là trần thuật: 1. Chủ thể đặt sự kiện
có nhân vật tham dự vào một chuỗi kí hiệu. 2. Chuỗi kí hiệu này có thể được một
chủ thể khác lí giải thành có thời gian và ý nghĩa. Định nghĩa này đã bài trừ
điều kiện “thuật lại” cần phải có của trần thuật, nhân vật và sự kiện được trần
thuật không nhất định phải thuộc về quá khứ, tính thời gian – biến đổi trong sự
kiện và ý nghĩa của sự biến đổi này có được do sự trùng cấu trong ý thức của
người tiếp nhận.
Tự
sự học nghĩa rộng phân các tác phẩm tự sự thành tự sự kí thực và tự sự hư cấu.
Với Tự sự học nghĩa rộng, Tự sự kí thực lần đầu tiên xuất hiện trong thi học tự
sự với hình thái của thi học và được cho rằng nó mới là trạng thái thường thấy
của nghiên cứu tự sự. Dựa theo tiêu chí về tính hư cấu và tính chân thực, trần thuật
có thể chia thành 1. Trần thuật mang tính chân thực: tin tức, lịch sử, biện hộ
trong tòa án…; 2. Trần thuật mang tính hư cấu: tiểu thuyết, kịch, điện ảnh, trò
chơi điện tử…; 3. Trần thuật mang tính giống như thực: quảng cáo, tuyên truyền…;
4. Trần thuật mang tính giống như hư cấu: giấc mơ, giấc mơ ban ngày, hoang tưởng….
Dựa theo tính chất của phương tiện, có thể phân trần thuật thành: 1. Phương tiện
mang tính kí thực: lịch sử, tiểu thuyết, nhật kí, hoạt hình; 2. Phương tiện
mang tính biểu diễn: kể chuyện, vũ đạo, kịch câm, hí kịch, điện ảnh, truyền
hình, trò chơi điện tử…; phương tiện tâm linh: giấc mơ, giấc mơ ban ngày…[13]
Nghiên cứu Tự sự học trong lĩnh vực
khác ngoài văn học đã được các học giả Trung Quốc chú ý, ví dụ như Phó Tu Diên
với Bước đầu tì hiểu tự sự thính giác, Lưu
Bích Trân với Nghiên cứu tự sự wechat,
Tăng Khánh Hương với Tự sự học báo chí …
Chính những điều này cho thấy đề xuất xây dựng Tự sự học nghĩa rộng của Triệu
Nghị Hành là có cơ sở thực tiễn. Nghiên cứu Tự sự học kinh điển thiên lệch khi
chỉ chủ yếu tập trung vào kết cấu nội tại của văn bản tự sự văn học, coi nhẹ
các thể tài khác. Bởi vì, bản thân tự sự là một hành vi đặc thù của con người,
không chỉ xuất hiện trong lĩnh vực văn học. Trong khi đó, một đoạn nhạc, một bộ
phim, một bức họa, một toàn kiến trúc đều có thể được coi là một văn bản tự sự.
Tham vọng thông qua con đường nghiên cứu liên ngành liên phương tiện, tiến hành
phân loại tất cả các văn bản tự sự và tổng kết quy luật phổ biến của nó là một
tham vọng táo bạo của Triệu Nghị Hành nói riêng, và của các nhà tự sự học Trung
Quốc nói chung. Vấn đề lí thuyết này vẫn còn nhiều điều cần trao đổi, nhưng giá
trị gợi mở của nó là không thể phủ nhận.
3. Kết luận
Mặc dù các hướng nghiên cứu lí thuyết Tự sự học ở Trung
Quốc nhiều khi mới chỉ dừng lại ở đề xuất bước đầu, và cũng thường xuất phát từ
những gợi ý từ lí luận văn học phương Tây, nhưng việc định hình và phát triển
thành 5 hướng nghiên cứu cụ thể đã cho thấy sự chủ động của các nhà nghiên cứu
Trung Quốc khi tiếp nhận lí thuyết văn học nước ngoài. Chính điều này đã trở
thành cơ sở để họ tiến hành nghiên cứu, phát hiện ra đặc sắc của lí luận tự sự
và tác phẩm tự sự Trung Quốc, tham vọng xây dựng Tự sự học của riêng Trung Quốc
(như cuốn Tự sự học Trung Quốc của
Dương Nghĩa). Bản thân các nhà nghiên cứu Tự sự học Trung Quốc đã công bố những
bài viết mang tính chất lí thuyết trên tạp chí quốc tế (như Thân Đan, nhiều lần
công bố bài viết trên tạp chí Tự sự học của Mĩ). Như vậy, Tự sự học ở Trung Quốc
đã đi từ tiếp nhận lí thuyết phương Tây đến chỗ có thể đối thoại với phương
Tây, đây là một thành công không nhỏ của học giả nước này.
Đỗ
Văn Hiểu
Bài
đã đăng trên tạp chí Nghiên cứu Văn học
số tháng 1 năm 2017
[1]
Thân Đan,
Tự sự học và nghiêu cứu văn thể
tiểu thuyết, Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh, Bắc Kinh, 1998
[2]
Than Đan,
Bổ sung và vay mượn lẫn nhau giữa
thể loại học và tự sự học, Tạp chí Giang Hán luận đàn, số 3, 2006
[3]
Than Đan,
Đọc kĩ chỉnh thể và ý nghĩa tầng
sâu – Đọc lại “Một phiến đoạn chiến tranh” của Stephen Crane, Tạp chí
Nghiên cứu văn học nước ngoài, số 2, 2007
[4] Xa
Cẩn Sơn,
Ý tưởng về tự sự học so sánh,
Văn học so sánh Trung Quốc, số 2, 2006
[5] Đàm
Quân Cường,
Tự sự học so sánh: Một trong
những con đường nghiên cứu tự sự học Trung Quốc, Tạp chí Khoa học xã hội
Giang Tây, số 3, 2010
[6]
Đàm Quân Cường,
Tự sự học so sánh: Một
trong những con đường nghiên cứu tự sự học Trung Quốc, Tạp chí Khoa học xã
hội Giang Tây, số 3, 2010, tr 37
[7]
Đàm Quân Cường,
Sự phát triển của lí luận
tự sự và tự sự học văn hóa thẩm mĩ, Chiến tuyến tư tưởng, số 5, 2002
[8]
Đàm Quân Cường,
Lí luận tự sự trong ngữ cảnh
nghiên cứu văn hóa, Bình luận văn học, số 1, 2003
[9]
Đàm Quân Cường…,
Tự sự học văn hóa thẩm
mĩ: lí luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Trung Quốc, 2002.
[10]
Long Địch Dũng,
Tự sự học không gian –
lĩnh vực mới của nghiên cứu tự sự học, Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm
Thiên Tân, số 6, 2008
[11]
Triệu Nghị Hành,
Sau “bước ngoặt trần thuật”
– tính khả năng và tính tất yếu của trần thuật học nghĩa rộng, Tạp chí Khoa
học xã hội Giang Tây, 9-2008
[12]
Triệu Nghị Hành,
Tự sự học nghĩa rộng,
Nhà xuất bản Đại học Tứ Xuyên, 2013
[13] Triệu
Nghị Hành,
Sau “bước ngoặt trần thuật” –
tính khả năng và tính tất yếu của tự sự học nghĩa rộng. Tạp chí Tự sự, Nhà
xuất bản khoa học xã hội Trung Quốc, 2009
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét