I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1. Giai đoạn mới hình thành và củng cố đội ngũ trong chiến tranh (1958-1960)
a. Giai đoạn hình thành (1958-1964)
Từ Tổ Lý luận văn học - Văn học nước ngoài cùng chung với Đại học Tổng hợp tách riêng thành Tổ Lý luận văn học ĐHSP Hà Nội vào năm 1958.
- Giáo sư Nguyễn Lương Ngọc làm chủ nhiệm Bộ môn và kiêm chủ nhiệm phân khoa Văn và Khoa Văn - Sử. Năm 1959 thầy Trần Văn Bính làm tổ trưởng, thầy Lê Bá Hán về Vinh làm chủ nhiệm Bộ môn Lý luận văn học, tổ bổ sung thầy Nguyễn Văn Hoàn (1963 Thầy Hoàn chuyển về Viện Văn học).
- Hai thầy Thành Thế Thái Bình và Hồ Văn Nho tốt nghiệp khóa 1960-1961 được giữ lại tổ. Thầy Lê Đăng Bảng về tổ 1961, cuối 1962 làm Chủ nhiệm Bộ môn (1964 đi B). Tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh ở Liên xô về 1963, 1964 làm chủ nhiệm bộ môn
b. Giai đoạn chiến tranh chống Mĩ (1965-1975)
Trong suốt 10 năm TS Nguyễn Văn Hạnh làm chủ nhiệm Bộ môn. Thầy Trần Văn Bính ở Liên xô về cuối 1964-1966 chuyển lên ĐHSP Việt Bắc. Thầy Bùi Văn Ba ở Tổ Văn học nước ngoài từ 1960 chuyển sang tổ Lý luận văn học 1965. Thầy Nguyễn Nghĩa Trọng và thầy Phùng Quí Nhâm tốt nghiệp khóa 1965 được giữ lại. Thầy Lâm Quang Vinh tốt nghiệp 1965 và anh Lê Ngọc Trà tốt nghiệp 1967 (cùng nhóm Mĩ học) ở lại tổ. Thầy Nguyễn Xuân Nam từ ĐHSP Vinh chuyển ra năm 1966. Thầy Phạm Đăng Dư và cô Nguyễn Kim Phong tốt nghiệp 1968 được giữ lại. Cô Nguyễn Thị Mĩ Hòa ở tổ Việt Nam 1 chuyển về tổ 1969. Đây là thời kỳ số lượng tổ viên đông nhất (12 người)
c. Giai đoạn 1975-1980
Đây là giai đoạn nhiều khó khăn về kinh tế, chiến tranh biên giới, mở hệ đào tạo Sau Đại học, cán bộ vừa phải đi Nam công tác vừa đi học nước ngoài 8 đồng chí, chiếm 2/3 tổ… Sau giải phóng, thầy Hạnh làm Giám đốc Viện Đại học Huế. Thầy Hồ Văn Nho về ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh (mất 1986); thầy Lâm Quang Vinh về ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh, thầy Nguyễn Ngĩa Trọng đi làm nghiên cứu sinh 1975, bảo vệ TS và về tổ 1979, thầy Phùng Quí Nhâm đi làm NCS ở Bun Ga ri 1977, thầy Lê Ngọc Trà đi làm NCS ở Liên xô 1977. Năm 1978 chị Nguyễn Kim Phong đi làm NCS ở Liên xô, 1982 về Nhà xuất bản Giáo dục. Cô Nguyễn Mĩ Hòa năm 1977 chuyển về công tác tại Cao đẳng thành phố Hồ Chí Minh, có thời điểm tổ chỉ còn 4 người do thầy Thành Thế Thái Bình phụ trách. Tiếp đến tổ bổ sung thêm thầy Nguyễn Xuân Hậu (1976), thầy Phùng Ngọc Kiếm và cô Lê Lưu Oanh (1977). Cô Hoàng Thị Văn về tổ 1975, sau chuyển về ĐHSP II. Năm 1979 thầy Nguyễn Nghĩa Trọng trở về tổ, 1980 thầy Trần Văn Bính trở về tổ.
2. Thời kì phát triển (1981-1926)
Từ năm 1980 - 1990 các thầy Trần Văn Bính chuyển về Học viên chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, thầy Thành Thế Thái Bình về công tác tại Khoa văn ĐHSP II; thầy Nguyễn Văn Hậu về hưu. Tiến sĩ Trần Đình Sử về khoa 1981, TS La Khắc Hòa về tổ 1983; TS Trần Mạnh Tiến về tổ 1997. Thầy Bùi Văn Ba là Chủ nhiệm Bộ môn 1981-2001. 2002 GS.TS Trần Đình Sử làm chủ nhiệm Bộ môn, năm 2003 PGS Nguyễn Xuân Nam về hưu, 2004 thầy Phạm Đăng Dư về hưu; 2006 PGS.TSKH về hưu; 2004 -2007 PGS.TS La Khắc Hòa làm chủ nhiệm Bộ môn; năm 2007 PGS.TS Lê Lưu Oanh làm chủ nhiệm bộ môn; 2013 - nay PGS.TS Trần Mạnh Tiến làm chủ nhiệm Bộ môn; từ 2001 cho đến nay tổ tiếp tục bổ sung thêm 6 cán bộ gồm Nguyễn Thị Hải Phương, Trần Ngọc Hiếu, Đỗ Văn Hiểu, Lê Trà My, Nguyễn Ngọc Minh, Lộ Đức Anh. Cô Lê Trà My chuyển (từ ĐHSP II, 2004) còn lại 5 cán bộ đều là sinh viên khoa Ngữ văn được giữ lại làm cán bộ giảng dạy.
3. Về hoạt động chuyên môn
Ngay từ khi thành lập, tổ Lý luận văn học luôn coi trọng nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ hàng đầu, liên tục động viên các giảng viên đi học ở nước ngoài và trong nước như TS. Nguyễn Nghĩa Trọng bảo vệ TSKH ở Liên xô, TS Bùi Văn Ba bảo vệ TSKH ở trong nước. Tỷ lệ tổ viên có học hàm học vị cao ở trong khoa. Về học hàm PGS: Nguyễn Xuân Nam (1984), Bùi Văn Ba (bút danh Phương Lựu) (1984), La Khắc Hòa (bút danh Lã Nguyên) (1991), Nguyễn Nghĩa Trọng (1996), Lê Lưu Oanh (2002), Phùng Ngọc Kiếm (2003), Trần Mạnh Tiến (2005). Về học hàm GS: Bùi Văn Ba (1991), Trần Đình Sử (1996). Tổ coi trọng trau dồi chuyên môn, ngoại ngữ, nhiều giảng viên biết sử dụng tốt từ 1-2 ngoại ngữ.
Hiện nay các giảng viên tổ đang trong tuổi làm việc gồm có 9 giảng viên, 8 giảng viên có trình độ Tiên sĩ, 1 giảng viên là thạc sĩ (Lộ Đức Anh), 3 giảng viên có học hàm PGS: Phùng Ngọc Kiếm, Lê Lưu Oanh, Trần Mạnh Tiến. Các luận án của 3 giảng viên trên được bổ sung xuất bản thành các cuốn chuyên khảo, giáo trình
- Lê Lưu Oanh với luận án: Thơ trữ tình 1975-1990 (bảo vệ 1995)
- Phùng Ngọc Kiếm: Con người trong truyện ngắn 1945-1975 (Bảo vệ 1996)
- Trần Mạnh tiến: Lý luận phê bình văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX (Bảo vệ 1997)
Đây là tổ dẫn đầu về chuyên môn và nghiên cứu khoa học trong nhiều năm, các nguồn lí thuyết mới được các giảng viên trong tổ cập nhật nước ngoài giới thiệu và ứng dụng sớm trong đào tạo như lí luận phê bình phương Tây ở thế kỷ XX và XXI, các đề tài khoa học có tính ứng dụng cao. Số lượng sách giáo trình, chuyên khảo, tham khảo và các bài báo khoa học, đề tài khoa học công nghệ cao nhất trong khoa.
II. HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO
1. Hệ Đại học
Kể từ khi có hệ đào tạo chính qui 4 năm, tổ Lý luận văn học đã đưa vào các chương trình mới: Mác Ăng ghen, Lê nin về văn học nghệ thuật, Đường lối văn nghệ của Đảng, Nguyên lý tính dân tộc trong văn học, Văn học và các loại hình nghệ thuật khác, Phương pháp luận nghiên cứu văn học… Ngay sau ngày giải phóng miền Nam cácc giảng viên trong tổ đã tham gia giảng dạy ở các trường Đại học, các trung tâm đào tạo lớn ở miền Nam như Sài Gòn, Hà Nội, Cần Thơ và nước bạn như Lào, Cam pu chia.
2. Hệ Sau đại học
Gần 20 năm trở lại đây tổ lại tiếp tục bổ sung các chuyên đề mới: Các trường phái lí luận phê bình phương Tây hiện đại, Ký hiệu học, Chủ nghĩa hậu hiện đại, Chủ nghĩa nữ quyền sinh thái, Chuyển thể văn học, Thi pháp thơ Tố Hữu, Lý luận phê bình văn học đầu thế kỷ XX…
Nhiều chuyên đề mới mẻ được triển khai: Lí luận phê bình văn học phương Tây, Lí luận văn học phương Đông; Những vấn đề hiện đại của lí luận văn học Mác xít; Phương pháp luận lí luận văn học; Vấn đề giảng dạy lí luận văn học từ trung học đến đại học; Thể loại văn học; Thi pháp thơ, Thi pháp truyện ngắn, Lý luận phê bình văn học Việt Nam thê kỷ XX.
Các giảng viên đã tham gia giảng dạy các chuyên đề mới và tham gia đánh giá luận văn luận án ở các trường Đại học lớn trong nước như Huế, thành phố Hồ Chí Minh, Thái Nguyên, Vinh, Thái Nguyên… và tham gia giảng dạy ở nước ngoài.
Tính từ năm 1976 đến nay tổ Lý luận văn học đã đào tạo tới trên 400 Thạc sĩ, gần 60 Tiến sĩ trong và ngoài trường và nước bạn Lào, Cam phu chia…
3. Biên soạn giáo trình, chương trình, sách chuyên khảo, tham khảo
Từ 1970 trở về trước các giáo trình ở bậc đại học chủ yếu dựa vào giáo trình Lý luận văn học của Liên xô và một phần của Trung Quốc. Đầu 1980 Bộ giáo dục thành lập Hội đồng Ngữ văn để chủ động xây dựng chương trình mới trong đó có Lí luận văn học theo hướng dân tộc và hiện đại. Cuối những năm 50 tổ Bộ môn LLVH mới thành lập, thầy Nguyễn Lương Ngọc chủ biên và có thầy Nguyễn Văn Hoàn, Trần văn Bính cùng biên soạn bộ giáo trình đầu tiên lấy tên là Nguyên lí lí luận văn học, gồm 3 tập (1960-1963). Tiếp đến là bộ Cơ sở LLVH (4 tập- nhà xuất bản Giáo dục 1965) phối hợp với Đại học Tổng hợp vẫn do thầy Nguyễn Lương Ngọc chủ biên cùng các tác giả Nguyễn Văn Hạnh, Trần Văn Bính, Nguyễn Xuân Nam. Đầu năm 1970, Hội đồng của Bộ Đại học được thành lập và có chủ trương ĐHSP Hà Nội kết hợp với ĐHSP Vinh viết Bộ giáo trình Cơ sở LLVH 3 tập (NXB. ĐH và Trung học chuyên nghiệp 1975-1983. ĐHSP Hà Nội có thầy Nguyễn Lương Ngọc chủ biên cùng các tác giả Nguyễn Văn Hạnh, Phương Lựu (Bùi Văn Ba).
Đầu năm 1980 trên cơ sở chương trình LLVH theo hướng dân tộc hiện đại nói trên Bộ giáo dục chủ trương một số trường ĐH trong nước viết chung Bộ giáo trình Lí luận văn học tập 3 (Nhà xuất bản Giáo dục, 1986-1988) do ĐHSP làm nòng cốt. Thầy Phương Lựu làm chủ biên cùng các thầy Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, La Khắc Hòa. Bộ giáo trình này đã được Hội đồng thẩm định sách của Bộ Giáo dục và Đào tạo giới thiệu làm sách chung cho các trường Đại học và 10 năm sau đươc Tái bản lại (1997). Năm 1997 và 2001, tổ đã tham gia biên soạn 2 bộ Giáo trình Lí luận văn học cho hệ Từ xa và Tại chức cử nhân Tiểu học và cử nhân văn với các tác giả Trần Đình Sử Nguyễn Nghĩa Trọng, Phạm Đăng Dư, Trần Mạn Tiến, Lê Lưu Oanh, Phùng Ngọc Kiếm. Năm 2003 và 2005 tổ đã cho ra mắt tập 1, tập 3 bộ giáo trình Lí luận văn học (GS. Phương Lựu chủ biên) cho hệ cử nhân chính qui. Năm 2005 Bộ giáo trình Lí luận văn học (GS. Trần Đình Sử chủ biên) được xuất bản cho hệ Cao đẳng. Từ 2002 trở đi GS. Trần Đình Sử được cử làm Tổng chủ biên sách Ngữ văn Phổ thông.
III. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bên cạnh các Hội thảo khoa học trong và ngoài nướ, các sinh hoạt tọa đàm văn học; các chuyên luận trong tổ đã liên tục được xuất bản như Thi pháp thơ Tố Hữu, Thi pháp học, Tư tưởng Lí luận văn nghệ Mác Ăng ghen, Phương pháp luận nghiên cứu văn học; Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, Lan Khai- Tác phẩm nghiên cứu lý luận phê bình văn học; Lan Khai - Lầm Than, Lan Khai – Truyện đường rừng, Văn học với các loại hình nghệ thuật…
Từ cuối những năm 1980 – 2000 trở đi, tổ luôn quan tâm đến các vấn đề lí luận hiện đại của thế giới qua chuyển dịch, giới thiệu. Các công trình Văn học so sánh, thi pháp học, tự sự học đã được xuất bản. Tổng hợp lại đến nay trong tổ đã có tới 50 sách chuyên luận. 120 đầu sách hợp tác (1/2 là sách phổ thông). Có khoảng 600 bản báo cáo; dịch thuật gần 20 công trình. 9 bài báo Quốc tế. Tổ chức các Hội nghị Khoa học cấp Quốc gia như Tự sự học (2001), Văn học so sánh (2004); “Lý luận văn học thế giới với Việt Nam” (đề tài cấp nhà nước 2006- 2009); “Thi học cổ điển Trung Hoa” (2015). Năm 2015 Nhà xuất bản Giáo dục cho ra mắt bạn đọc Tuyển tập Trần Đình Sử và Tuyển tập Phương Lựu…
Từ nền tảng lí luận và phê bình hiện đại, tổ lý luận đã thực hành kết hợp ứng dụng lý luận Mác xít với lý thuyết hiện đại phương Tây vào nghiên cứu và đào tạo mang lại nhiều kết quả mới như lý thuyết diễn ngôn, so sánh văn học, phê bình văn hóa, ký hiệu học…
IV. CÔNG TÁC XÃ HỘI
1. Hoạt động của các tổ viên
Trong chiến tranh chống Mĩ đại bộ phận tổ viên đều đi sơ tán tham gia chủ nhiệm các lớp linh viên như các thầy Bùi Văn Ba, Thành Thế Thái Bình, Hồ Văn Nho. Công tác chính quyền và công đoàn rất nặng nề. Thầy Hạnh là Phó chủ nhiệm khoa phải cáng đáng mọi nhiệm vụ (Chủ nhiệm Khoa ốm đau), thầy Thành Thế Thái Bình làm công tác Đảng ủy, Bùi Văn Ba làm công tác công đoàn, công tác kiến thiết và thủ qũi… Các giảng viên phải vừa giảng dạy vừa nghiên cứu vừa tham gia chiến đấu. các tổ viên đều tham gia tự vệ như Nguyễn văn Hạnh, Nguyễn Kim Phong. Thành thế Thái Bình làm chính trị viên. Bùi Văn Ba làm trung đội trưởng. Trong chiến tranh phá hoại, các thầy Bùi Văn Ba, Thành Thế Thái Bình phải tham gia trực chiến trong khẩu đội 12 ly 7 đặt trên gò đất sau nhà A7 góp phận bắn rơi chếc F4 ngày 7/8/1972. Trong chiến tranh biên giới Phạm Đăng Dư, Phùng Ngọc Kiếm cùng đội xung kích lên Lạng Sơn, tổ cùng trung đoàn ĐHSP xây dựng phòng tuyến Sông Cầu.
2. Các cán bộ khoa:
a. Chủ nhiệm khoa: Nguyễn Lương Ngọc (1958-1963)
b. Bí thư Đảng ủy khoa: Thành Thế Thái Bình (1978-1982). Nguyễn Nghĩa Trọng (1981-1983); Nguyễn Xuân Hậu (1983-1990); Phạm Đăng Dư (1986-1985); Phùng Ngọc Kiếm (2004-2006)
c. Phó chủ nhiệm khoa: Nguyễn Văn Hạnh (1966-1975); Nguyễn Nghĩa Trọng (1980-1983); Phùng Ngọc Kiếm (2004-2006)
d. Chủ tịch công đoàn: Thành Thế Thái Bình (1973-1975); Trần Mạnh Tiến chủ tịch công đoàn khoa (2002-2005), Thường vụ công đoàn Trường (2004-2006)
đ. Bí thư đoàn khoa: Thành Thế Thái Bình (1962-1964); Nguyễn Nghĩa Trọng (1967-1968); Phạm Đăng Dư (1968-1977); Phùng Ngọc Kiếm (1979-1984)…
3. Cấp trường
Hiệu trưởng Nguyễn Lương Ngọc (1970-1975); Bí thư đoàn Trường Phạm Đăng Dư (1978-1982); Giám đốc Trung tâm Trung Quốc học Bùi Văn Ba; Phó giám đốc trung tâm: Trần Đình Sử từ 1999 đến 2010.
4. Đại học Quốc gia Hà Nội
Hội đồng khoa học: Trần Đình Sử, Bùi Văn Ba; Phó giám đốc Nhà xuất bản La Khắc Hòa; Phụ trách tờ tin ĐHSP Hà Nội Phùng Ngọc Kiếm.
5. Bộ Giáo dục và đào tạo
Ủy viên Thường trực Bộ môn Ngữ văn bậc đại học; Ủy viên Hội đồng Ngữ văn Trung học; Trần Đình Sử Ủy viên Hội đòng học hàm chuyên ngành văn: Trần Đình Sử…
6. Hội Nhà văn, Hội Văn nghệ dân gian, Hội Nho học Quốc tế
Ủy viên Hội đồng LLPB: Phương Lựu (Khóa IV); Trần Đình Sử (Khóa V,VI). GS. Bùi Văn Ba, Hội đồng Nho học Quốc tế; PGS. Nguyễn Xuân Nam Hội viên Nhà văn; PGS.TS Trần Mạnh Tiến Hội viên hội Nhà văn, Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
V. Khen thưởng
1. Cấp Bộ
Năm 1995, GSTSKH Phương Lựu được Bộ khen thưởng về đề tài cấp Bộ: Lý luận hiện đại phương Tây. Năm 1998, GS.TS Trần Đình Sử được Bộ khen về công tác chủ biên sách văn Phổ thông
2. Giải thưởng Hội Nhà văn
Năm 1995, GSTSKH Phương Lựu được giải thưởng cuốn Trên đà đổi mới văn nghệ. Năm 1998, GSTS Trần Đình Sử được giải LLPB về cuốn Lý luận phê bình văn học.
3. Giải thưởng nhà nước năm 2000
GSTSKH PHương Lựu được giải về cụm công trình Lý luận văn học dân tộc- hiện đại. GS.TS Trần Đình Sử được giải thưởng về cụm công trình Thi pháp học.
4. Giải thưởng Nhà nước 2001
GS.TSKH Phương Lựu
5. Giải thưởng cấp tỉnh, cấp Trường
PGS.TS Trần Mạnh Tiến, giải thưởng hạng Nhì Nghiên cứu chùm di sản văn hóa (Cấp tỉnh, 2008). Giải Nhì: Có thành tích xuất sắc trong Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ (2010). Giải Ba công trình: Nguồn xưa xứ lâm tuyền (2016)
Các khen thưởng khác:
Tổ LĐXHCN 12 năm: Bằng Khen thủ tướng chính phủ cho tổ Tiên tiến xuất sắc; Huân chương lao động hạng 3 năm 2003 (Nguyễn Xuân Nam, Bùi Văn Ba, Trần Đình Sử). Nhà giáo Nhân dân: Bùi Văn Ba, Trần Đình Sử; Nhà giáo Ưu tú (Nguyễn Nghĩa Trọng, Lê Lưu Oanh…). Huân chương hạng Nhất (Nguyễn Nghĩa Trọng, Phạm Đăng Dư); Huân chương kháng chiến chống Mĩ hạng Nhì, hạng Ba (Nguyễn Nghĩa Trọng, Bùi Văn Ba, Trần Đình Sử). Bằng khen của Bộ giáo dục và đào tạo; Huy chương vì thế hệ trẻ của TW Đoàn (1982); Huy chương vì sự nghiệp phát triển Thể dục thể thao Nhà nước (2000): Phạm Đăng Dư; Huy chương chiên sĩ vẻ vang (Phùng Ngọc Kiếm); Bằng khen Bộ Giáo dục (Trần Mạnh Tiến, Lê Lưu Oanh…)
Gần 60 năm thành lập, tổ Lý luận văn học khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã có một quá trình phát triển ngày một qui mô và hoàn thiện. Ở giai đoạn nào cũng có các cán bộ giỏi về chuyên môn có ảnh hưởng quan trọng đến hệ thống lí luận phê bình trong đào tạo và văn hóa xã hội. Hiện nay các nhà khoa học lí luận tuổi đã cao nhiều thầy cô đã nghỉ hưu, nhiều cán bộ trẻ đã có bằng Tiên sĩ nhưng trước yêu cầu khoa học của thời kì giao lưu hội nhập vẫn phải nỗ lực vươn lên nhiều hơn nữa về chuyên môn khoa học và ngoại ngữ; đổi mới giảng dạy và nghiên cứu để hoàn thành nhiệm vụ trong hoàn cảnh mới.
(Tháng 3 năm 2017)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét