Tác giả: Vương Nghiêu
Người dịch: Đỗ Văn Hiểu
Số trang: 440
Nhà xuất bản: Khoa học Xã hội
Thời gian xuất bản: 12/2017
Có thể tìm tại: Hiệu sách ngõ 130, số nhà 12 - H1, tập thể Đại học Sư phạm Hà Nội. Điện thoại: 02437548642
VĂNGIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ
Vương Nghiêu sinh tháng 4 năm 1960, tiến sĩ văn học, giáo sư danh dự,
học giả Trường Giang, viện trưởng Viện Văn học, chủ nhiệm
Hội đồng Khoa học Đại học Tô Châu, học giả trao đổi viện Harvard – Yanjing,
thành viên Ban Biên tập Tạp chí Bình luận
văn học của Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên
cứu Văn học mới của Đại học Nam Kinh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Phê bình văn học
nghệ thuật tỉnh Giang Tô, Phó Hội trưởng Hội Nghiên cứu văn học đương đại tỉnh
Giang Tô…
Vương Nghiêu chủ yếu nghiên cứu văn hóa tư tưởng và
văn học hiện đương đại Trung Quốc, ông đã xuất bản các chuyên luận: Văn học thập niên 80 , Lịch sử tản văn đương
đại Trung Quốc, Vào sinh ra tử trong Hán ngữ, Tự thuật và diễn giải của “cách mạng”
về “phong trào Ngũ Tứ” và “văn học nghệ thuật hiện đại”, Lịch sử hai bên, Tu từ
“sự kiện tư tưởng”, Ghi chép về đối thoại giữa Mạc Ngôn và Vương Nghiêu.
Ông chủ biên các bộ sách Văn học cách mạng văn hóa, Phê bình văn học đương đại Trung Quốc, Bộ
sách dịch “Nghiên cứu văn học hiện đại Trung Quốc ở hải ngoại” và bộ sách “Ghi
chép đối thoại nhân văn mới” …, ngoài ra còn có các tập tản văn và tùy bút
như Đi tìm vẻ đẹp văn chương, Không – thời
gian giao thoa (Tùy bút văn hóa học thuật đương đại), Cởi bỏ áo ngoài của văn
hóa, Thập niên 80 của một cá nhân và
Trí thức trên giấy…. Ông là chuyên gia đầu ngành của quỹ khoa học xã hội quốc
gia, từng đoạt giải thưởng Phê bình văn học của giải Truyền thông Văn học Hoa
ngữ, giải thưởng Văn học Tử Kim Sơn, giải thưởng Tản văn Tử Kim Sơn, giải thưởng
Cống hiến xuất sắc trong nghiên cứu khoa học xã hội triết học và giải thưởng Khoa
học giáo dục nhân văn tỉnh Giang Tô… Từng diễn giảng học thuật ở Đại học
Harvard, Đại học Stanford, Đại học Newyork, Đại học Wisconsin phân hiệu Madison,
Maryland, Tokyo…
1.
Sự hình thành, phát triển và chuyển hướng của phê bình văn học đương đại Trung
Quốc (Thay lời tựa)
2.
Chu Dương và văn học thời kì mới
3.
Từ Cao lương đỏ đến Đàn hương hình (Phỏng vấn Mạc Ngôn)
4. Lịch sử văn học của một cá nhân hay là xuất phát từ điểm mờ của văn
học sử (Bình luận về tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa và những vấn đề liên quan)
5.
Đọc lại Phế đô và bàn về trí thức thập
niên 90
6.
Tu từ của “sự kiện tư tưởng” (Ghi chép khi đọc Thời đại khai sáng của Vương An Ức)
7.
Vấn đề Trung Quốc trong Đất dày (Bàn
về Lý Nhuệ)
8.
Triết học và thi học ra đời và phát triển trong quan hệ căng thẳng giữa cá nhân
và lịch sử (Ghi chú khi đọc về Trương Vỹ)
9.
Về văn chương gần đây của Diệp Triệu Ngôn và những thứ khác
10.
“Người giằng co với vĩnh hằng” (Bàn về Dư Quang Trung)
11.
Chuyển đổi diễn ngôn trí thức và tản văn của Dư Thu Vũ
-
kết hợp bàn về “Đại tản văn văn hóa”
12.
Trần Hoán Sinh chiến thuật: Sáng tạo
và hạn chế của Cao Hiểu Thanh
(Ghi
chú khi đọc lại "Loạt tiểu thuyết về Trần
Hoán Sinh")
13.
Nhà thơ trữ tình cổ điển Trung Quốc cuối cùng
(Lại bàn về tản văn của Uông
Tăng Kỳ)
.................................................................................................................................................................
Từ Cao lương đỏ đến Đàn hương hình (Phỏng vấn Mạc Ngôn)
(Trích)
Vương Nghiêu: Tôi cảm thấy ông rất thành công trong việc lí giải lịch sử từ quê hương Cao Mật. Tỉ mỉ xem xét trong vòng 100 năm, nhà văn có thể thực sự thành công thông qua sáng tác của mình làm cho địa lí văn học trở thành không gian lịch sử không phải là nhiều, như Thiệu Hưng dưới ngòi bút của Lỗ Tấn, Tương Tây dưới ngòi bút của Thẩm Tùng Văn cũng không có nhiều. Trong giai đoạn văn học tầm căn, có những nhà văn từng rất cố gắng, nhưng không duy trì được lâu, như Lý Hàng Dục, Trịnh Vạn Long… Theo tôi, không gian địa lí trong văn học nên vượt qua ý nghĩa địa lí học.
Mạc Ngôn: Quá khen rồi! Phần lớn các nhà văn đều có một miền đất như vậy của riêng mình, gọi là vương quốc văn học cũng được, gọi là nước cộng hòa văn học cũng được. Mỗi người đều có nơi nương tựa của mình, nơi mà Thẩm Tùng Văn nương tựa là Tương Tây, nơi mà Lỗ Tấn nương tựa là Thiệu Hưng, nơi mà Vương An Ức nương tựa là Thượng Hải. Vương An Ức viết về nông thôn Tô Bắc cũng được, nhưng giúp bà có được danh tiếng lớn vẫn là viết về Thượng Hải. Tôi cảm thấy loạt nhà văn hiện đại này có chút khác so với thời kì của Lỗ Tấn. Thiệu Hưng mà Lỗ Tấn viết chính là Thiệu Hưng, đến nhân vật đều có thể tìm thấy nguyên hình, giống như AQ, Nhuận Thổ, rất nhiều nhân vật chân thực. Thế còn Tương Tây của Thẩm Tùng Văn thì sao, cũng mang ý nghĩa lịch sử địa phương, địa chí địa phương. Ở một mức độ nhất định, lí giải về “cố hương” của các nhà văn hiện nay vượt qua các nhà văn thời kì Ngũ Tứ. Luận văn thạc sĩ của tôi có tiêu đề là Vượt qua cố hương. Đương nhiên cái gọi là luận văn thạc sĩ của tôi về cơ bản là loạn ngôn loạn ngữ, không thể so sánh với những luận văn quy phạm, nhưng dù sao cũng tạm coi là luận văn. Một nhà văn có thể đi xa hơn, phải xem năng lực “vượt qua cố hương” của anh ta. Trên thực tế, năng lực “vượt qua cố hương” cũng là năng lực đồng hóa đời sống. Anh có thể đem những thứ đọc được ở sách của người khác, nghe được từ miệng người khác, dùng tình cảm của mình, sức tưởng tượng của mình, chắp cho nó đôi cánh hay không, sẽ quyết định việc tài nguyên sáng tác của anh có được bổ sung không ngừng hay không. Ví dụ với tư cách là một nhà văn anh không thể trở thành đao phủ đi giết người, nhưng có thể tưởng tượng mình nhập thân vào tâm lí của đao phủ hay không, sẽ quyết định mức độ khả tín của tác phẩm anh viết ra. Tôi còn nhớ hồi học ở Văn học Nghệ thuật Quân đội, ông Tôn Thiệu Chấn đến từ Phúc Kiến từng nói: một nhà văn có tiềm năng hay không, phụ thuộc vào việc anh ta có năng lực đồng hóa cuộc sống hay không. Có rất nhiều nhà văn, bao gồm cả nhà văn thời kì “kinh điển đỏ”, thường viết xong một cuốn sách thì bản thân cũng xong rồi, tức là không thể tiếp tục viết nữa, có tiếp tục viết thì cũng lặp lại chính mình. Anh ta dùng tích lũy về đời sống, trải nghiệm của mình viết xong, sau đó tiếp tục viết chỉ là rang cơm thừa. Nhiều nhất cũng chỉ là viết lại các góc còn sót lại trong bộ sách thứ nhất. Đời sống mới, đời sống đang nóng lên trước mắt, đời sống của người khác rất khó đi vào đầu óc họ, đi vào cũng không thể được đồng hóa, cho nên mặc dù thu thập được một đống tài liệu, trên phương diện nghệ thuật cũng không có vấn đề, ví dụ anh ta ba năm thâm nhập vào đời sống ở nhà máy gang thép, quen thuộc toàn bộ quá trình luyện gang, nhưng viết ra vẫn không giống. Rất nhiều nhà văn trẻ hiện nay cảm thấy có năng lực đồng hóa cuộc sống người khác, viết cái gì giống cái đó, cái gì cũng có thể viết, đây là sự tiến bộ của thời đại.
“Cố hương” cũng là “cố hương” trên ý nghĩa văn học, là địa lí học văn học. Ví dụ quê hương Đông Bắc Cao Mật mà tôi viết, một số câu chuyện nào đó trong thời kì Cao lương đỏ vẫn có thể tìm được nguyên hình. Đến Báu vật của đời thì đã phá vỡ cái gọi là “chân thực”. Ngay cả là trên một số vấn đề có tính kĩ thuật, giống như thảm thực vật, động vật, cồn cát, lau sậy được miêu tả trong tiểu thuyết, những thứ này ở quê hương Cao Mật căn bản không tồn tại. Dịch giả tiếng Nhật dịch cuốn Báu vật của đời đã đến Cao Mật, vẽ bản đồ rất chi tiết, tìm cồn cát, tìm đầm lầy, nhưng đến nơi thì thấy không có gì cả, chỉ có một bãi đất phẳng, một thôn trang đìu hiu. Tôi nghĩ một nhà văn có thể đồng hóa cuộc sống của người khác, có thể nạp đời sống thú vị của trời nam bể bắc vào “cố hương” của mình thì có thể viết liên tục được (...)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét