Tóm tắt: Sang thế kỉ 21, đời sống kinh
tế văn hóa xã hội ở Trung Quốc có những biến chuyển rõ rệt, kinh tế thị trường,
xã hội tiêu dùng, phương tiện truyền thông hiện đại phát triển… đã ảnh hưởng sâu
sắc đến hoạt động sáng tạo văn học, đến tâm lí tiếp nhận văn học, học tập lí luận
văn học của học sinh sinh viên. Lúc này, giáo trình lí luận văn học cũ đã bộc lộ
những hạn chế, kiến thức lí luận trong giáo trình đã không thể giúp học sinh
sinh viên lí giải được một số hiện tượng văn học mới xuất hiện. Trước tình hình
đó, giới nghiên cứu giảng dạy ở Trung Quốc đã tiến hành tìm tòi đổi mới giáo
trình lí luận văn học từ phương diện quan niệm viết giáo trình đến cấu trúc và
hàm lượng kiến thức cụ thể. Bài viết này giới thiệu một số cuốn giáo trình lí
luận văn học tiêu biểu cho những hướng đổi mới giáo trình cơ bản ở Trung Quốc đầu
thế kỉ 21 với mục đích nhằm tìm kiếm những gợi ý cho đổi mới giáo trình lí luận
văn học ở Việt Nam hiện nay, đó là cuốn giáo trình của Nam Phàm, Đào Đông
Phong, Vương Nhất Xuyên, Đồng Khánh
Bính.
Từ khóa: Lí luận văn học, Giáo trình, Việt
Nam, Trung Quốc
1. Mở đầu
Bộ môn lí luận văn học có vai trò
quan trọng trong đào tạo sinh viên chuyên ngành văn học ở Trung Quốc. Bước sang
thế kỉ 21, trước những yêu cầu của thế kỉ mới, hoạt động đổi mới biên soạn giáo
trình diễn ra tương đối sôi động. “Công việc biên soạn và chỉnh sửa giáo trình
lí luận văn học của Trung Quốc đại lục tính từ năm 1920 đến nay đã có hơn 90
năm lịch sử phát triển. Đặc biệt là từ năm 2000, công tác biên soạn và chỉnh sửa
giáo trình lí luận văn học vô cùng sôi động, nội dung giáo trình, cách thức
biên soạn, cơ chế xuất bản giáo trình… đều thể hiện trạng thái đa nguyên hóa,
theo người viết thống kê chưa đầy đủ, từ năm 2000 đến 2011 đã xuất bản hơn 79 bộ
giáo trình lí luận văn học”[
4, 106]. Tuy nhiên,
tình trạng “đại đồng tiểu dị” vẫn phổ biến trong biên soạn giáo trình ở Trung
Quốc. Trong số những bộ giáo trình đó đáng chú ý nhất là:
Lí luận văn học (bản mới) (2002) do
Nam Phàm chủ biên, Lí luận văn học (2003, chỉnh sửa năm
2011) của Vương
Nhất Xuyên,
Vấn đề cơ bản của lí luận văn học (2004, tái bản năm 2005, 2007, chỉnh
sửa năm 2012) do Đào Đông Phong chủ biên, Lí luận văn học tân biên (2010, tái bản sửa
chữa 3 lần trong 1 năm) và
Tân biên lí luận văn học (2011) do Đồng Khánh Bính chủ biên. Bài
viết tập trung phân tích tư tưởng biên soạn giáo trình, khung tri thức, cách thức
biên soạn của các bộ giáo trình trên, đồng thời đánh giá từ góc độ yêu cầu đổi
mới của lí luận văn học nói chung cũng như đặc thù của một môn học trong nhà
trường.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Lí
luận văn học (bản mới) (2002) do Nam Phàm chủ biên
Ở Trung Quốc trước thời kì đổi mới, lí luận văn học thiên sang
nghiên cứu văn học trong quan hệ với chính trị, thì sau thời kì đổi mới lại
nghiêng sang nghiên cứu nội tại, chú trọng vấn đề tính thẩm mĩ. Từ những năm
90, ở Trung Quốc tồn tại song song quan niệm văn học có tính độc lập, tính thẩm
mĩ thuần túy và quan niệm cần phải đặt văn học trong bối cảnh lịch sử văn hóa.
Sang thế kỉ mới Nam Phàm ý thức rất rõ về yêu cầu cần phải đổi mới giáo trình
lí luận văn học để đáp ứng nhu cầu của thời đại, ông viết: “Từ thập niên 90,
văn hóa hậu hiện đại và bối cảnh toàn cầu hóa mang đến không gian lí luận lớn
hơn cho vấn đề văn học, lúc này, mô hình lí luận văn học truyền thống đã không
đủ đáp ứng nữa, hệ thống mới của lí luận văn học phải được khảo sát và định vị
lại trong hoàn cảnh lịch sử hiện tại” [5, 2]. Ông muốn giải quyết mâu thuẫn giữa
quan niệm văn học có tính thẩm mĩ thuần túy và quan niệm văn học gắn với bối cảnh
lịch sử văn hóa, đồng thời cũng muốn thay thế mô hình cũ về quan hệ giữa văn học
và chính trị bằng mô hình quan hệ giữa văn học và văn hóa, muốn đưa vào giáo
trình những thành tựu lí luận văn học mới nhất của phương Tây, cố gắng kết hợp
giữa lí luận văn học phương Tây hiện đại với văn luận truyền thống Trung Quốc.
Với chủ
trương đó, ông đã tổ chức giáo trình thành 4 phần với 27 chương. Phần 1 “Sự cấu
thành của văn học”, thể hiện tư tưởng nghiên cứu nội tại văn bản văn học, gồm
các chương: Tái hiện văn học, Diễn ngôn văn học, Nhà văn, Văn bản, Thể loại, Diễn
ngôn tự sự, Diễn ngôn trữ tình, Tu từ, Phương tiện truyền thông. Phần 2 “Lịch sử
và lí luận”, nghiên cứu hình thái lịch sử của văn học, thể hiện quan niệm tiêu
chuẩn bình giá văn học không ngừng thay dổi trong lịch sử, gồm các chương sau: Nguồn
gốc của văn học, Kinh điển, Văn học đại chúng, Chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa
lãng mạn, Chủ nghĩa hiện thực, Chủ nghĩa hiện đại, Chủ nghĩa hậu hiện đại. Phần
3 Văn học và văn hóa, nghiêng sang hướng nghiên cứu văn hóa, gồm các chương sau:
Văn học và hình thái ý thức, Văn học và lịch sử, Văn học và xã hội, Văn học và
đạo đức, Văn học và tư tưởng, Văn học và giới tính. Phần 4 “Phê bình và diễn giải”,
chủ yếu là giới thiệu phương pháp phê bình ba lần chuyển đổi trọng tâm tác giả,
tác phẩm, độc giả trong lí luận văn học phương tây, bao gồm các chương: Chức
năng của phê bình văn học, Phê bình văn học và truyền thống nhà văn trung tâm, Phê
bình văn học và nghiên cứu tác phẩm, Phê bình văn học và lí luận tiếp nhận, Phê
bình văn học và nghiên cứu văn hóa.
Trong bộ
giáo trình này Nam Phàm đã coi phân tích diễn ngôn là tiêu điểm của lí luận văn
học, lí luận văn học thông qua phân tích diễn ngôn để thấy được diễn ngôn đã tạo
ra hiệu quả gì và làm thế nào để phát huy hiệu quả đó. Ông sử dụng phân tích diễn
ngôn để xử lí mâu thuẫn giữa nghiên cứu nội tại văn bản văn học và nghiên cứu
các mối liên hệ ngoài văn bản văn học. Có thể thấy ông đi từ phân tích diễn
ngôn đến phân tích các quan hệ giữa văn học với lịch sử xã hội, và khuynh hướng
chủ yếu của giáo trình vẫn là chú trọng phân tích lịch sử xã hội văn học trong
lí luận văn học – một khuynh hướng chủ đạo trong lí luận văn học phương tây hiện
đại. Khi chọn diễn ngôn làm tiêu điểm để xây dựng lí luận, Nam Phàm đã không hứng
thú với việc trả lời theo kiểu chủ nghĩa bản chất cho câu hỏi “văn học là gì” nữa,
mà hứng thú với tính lịch sử của tồn tại văn học, thậm chí ông hướng theo quan
niệm của Eagleton: văn học bất kì một tác phẩm nào được xã hội trong một giai
đoạn nhất định cho rằng nó là văn học. Xuất phát từ tính văn học rồi hướng tới
coi trọng phân tích lịch sử xã hội vốn là dòng chính trong lí luận văn học
phương tây hiện đại, do đó, khi thiết kế giáo trình như trên, Nam Phàm đã thể
hiện rõ dụng ý muốn cập nhật những thành tựu lí luận văn học mới nhất của
phương Tây.
Mặc dù cố gắng
đổi mới tư duy biên soạn giáo trình, nhưng trên thực tế, bộ giáo trình xuất bản
năm 2002 này cũng có những hạn chế. Mặc dù hướng tới xây dựng một hệ thống lí
luận mở, nhưng trên thực tế lại chỉ là một sự “trưng bày” lí luận hiện đại
phương Tây. Không những thế, nỗ lực xây dựng hệ hình lí luận văn học hậu hiện đại
dựa trên sự kết hợp giữa lí thuyết phương Tây và văn luận truyền thống Trung Quốc
là điều vô cùng khó khăn, bởi vì tiến trình lí luận văn học ở Trung Quốc và
phương Tây rất khác nhau. Nam Phàm đã cố gắng chỉnh hợp những đặc trưng phi thống
nhất của lí luận văn học hậu hiện đại bằng tư duy hiện đại. Giáo trình lí luận
văn học phương Tây thường được triển khai theo các trường phái, từ bỏ trường
phái này, lựa chọn trường phái kia. Còn giáo trình lí luận văn học của Trung Quốc
nói chung, cuốn giáo trình do Nam Phàm chủ biên nói riêng lại cố gắng đi tìm những
thuộc tính phổ biến và quy luật phổ biến của các hiện tượng văn học trong nước
và thế giới từ cổ chí kim. Tư duy biên soạn giáo trình lí luận văn học cũ của
Trung Quốc thường bắt đầu từ một định nghĩa nào đó, coi định nghĩa đó đúng cho
mọi hiện tượng văn học trong các thời điểm lịch sử khác nhau, thuộc các không
gian khác nhau. Kiểu tư duy biên soạn giáo trình này thoát li thực tế văn học,
khiến sinh viên lúng túng khi giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn đương thời. Kết
hợp tư duy biên soạn giáo trình lí luận của phương Tây và Trung Quốc gặp không
ít khó khăn. Nam Phàm mặc dù đã từ bỏ định nghĩa theo kiểu chủ nghĩa bản chất
trong những khía cạnh cụ thể như “văn học là gì”, “lí luận văn học là gì”,
nhưng trên cấp độ hệ thống, tư duy bản chất chủ nghĩa vẫn còn khá rõ rệt. Nhìn
chung, giáo trình của Nam Phàm dưới ảnh hưởng của xu hướng tư duy phản bản chất
chủ nghĩa đã có được một số thành tựu nhất định, nhưng không có nghĩa là đã xóa
bỏ được xung đột giữa các hệ thống lí luận.
2.2 Lí
luận văn học (2003) của Vương Nhất Xuyên
Trong số các bộ lí luận văn học đầu
thế kỉ 21 ở Trung Quốc, cuốn Lí luận văn
học của Vương Nhất Xuyên có nhiều nét độc đáo. Phần lớn giáo trình lí luận
văn học ở Trung Quốc đều là sản phẩm của cả tập thể, thì cuốn Lí luận văn học xuất bản năm 2003 này lại
là sản phẩm của cá nhân tác giả. Tư tưởng biên soạn giáo trình được Vương Nhất
Xuyên trình bày ngay trong Lời nói đầu:
“Lí luận văn học hiện đại Trung Quốc đã thử đi trên hai con đường khác nhau.
Con đường thứ nhất là “Tây hóa”, tức là khái niệm, phạm trù, phương pháp,
phương thức tư duy lí luận văn học đều mượn từ khung lí luận của phương Tây.
Con đường này ở một mức độ nhất định đã thỏa mãn được nhu cầu của người Trung
Quốc trong việc mượn khung tri thức của thế giới hiện đại để nắm bắt vấn đề văn
học Trung Quốc, nhưng đồng thời cũng khiến chúng ta cảm thấy mất đi truyền thống
văn luận vốn có của dân tộc, do đó, cũng có xu hướng quay trở về với văn luận
truyền thống. Con đường thứ hai là quay về văn luận truyền thống Trung Quốc, tìm
kiếm khái niệm, phạm trù, phương pháp, phương thức tư duy… lí luận văn học
thích hợp nhằm điều chỉnh sự thiên lệch trong con đường “Tây hóa”. Con đường
này tuy thỏa mãn mong muốn Trung Quốc hóa, truyền thống hóa của chúng ta, nhưng
do chúng ta sống trong thể chế mang tính hiện đại, ít có cơ hội thực tiễn cụ thể,
cho nên phần lớn chỉ có thể là chủ trương lí tưởng hoặc phương án trên phương
diện lí thuyết mà thôi. Nó đối diện với một vấn đề nan giải, khi bứt văn luận cổ
đại ra khỏi mảnh đất văn hóa cổ đại mà nó ra đời, đưa vào mảnh đất văn hóa hiện
nay, liệu nó còn có thể tồn tại và đầy sức sống như cũ không? Theo cách nhìn hiện
nay, con đường Tây hóa và con đường trở về với truyền thống Trung Quốc đều có
ưu điểm và hạn chế, cần tổng kết thành công và thất bại trên hai con đường đó,
tìm con đường mới. Và con đường này có thể gọi một cách giản đơn là văn luận hiện
đại cần truyền thống mới. Tìm truyền thống mới của văn luận hiện đại có tính tất
yếu trong việc xây dựng văn luận hiện đại Trung Quốc hiện nay” [6, 1].
Cuốn Lí luận văn học
của Vương Nhất Xuyên làm nổi bật cảm giác lịch sử và cảm giác hiện thực của vấn
đề được trình bày. Cuốn giáo trình được triển khai thành 10 chương: Văn học và
lí luận văn học, Quan niệm văn học, Đặc tính của văn học, Phương tiện của văn học,
Văn bản văn học, Các tầng của văn bản văn học, Phầm chất văn học, Sáng tác văn
học, Đọc văn học, Phê bình văn học. Thành công của giáo trình là đã kết hợp giữa
thành quả tiên tiến của lí luận hiện đại phương Tây và văn luân cổ đại Trung Quốc.
Ông tán thành phản bản chất chủ nghĩa nhưng không muốn giải cấu lí luận, ông chỉ
muốn xây dựng lí luận văn học mang tính dân tộc hiện đại. Ông đã ra sức khai
thác hệ thống khái niệm lí luận và tinh thần văn học truyền thống kết hợp với
thành tựu lí luận hiện đại phương Tây, hay đúng hơn là mượn lí luận phương Tây
để xây dựng lí luận phương Đông. Đây là cố gắng khắc phục hiện tượng coi lí luận
văn học phương Tây là trung tâm, cố gắng xây dựng lí luận văn học mang bản sắc
Trung Quốc, cố gắng để có thể đối thoại bình đẳng với lí luận văn học phương
Tây. Ngoài ra, kết cấu giáo trình của Vương Nhất Xuyên còn khác các giáo trình
khác ở chỗ ông đã đưa vào một số mẫu phân tích như khi bàn về “Đặc tính của văn
học” ông đã phân tích hai trường hợp là bài thơ Tôi đến bờ sông Dương Tử mua một bông hoa sen của Từ Chí Ma và tiểu
thuyết Nhật quang lưu niên của Diêm
Liên Khoa, hay khi viết về “Đọc văn học” ông đã phân tích tiểu thuyết Thế giới bình thường của Lộ Dao. Cách
biên soạn này là một thử nghiệm nhằm tăng tính ứng dụng cho một giáo trình lí
thuyết, đồng thời gắn lí thuyết với hiện tượng văn học đương đại - Nhật quang lưu niên của Diêm Liên Khoa lần
đầu tiên công bố vào năm 1998, còn cuốn giáo trình của Vương Nhất Xuyên được xuất
bản năm 2003. Các giáo trình lí luận văn học Trung Quốc thường phân tích các ví
dụ kinh điển, ít khi sử dụng hiện tượng văn học mang tính thời sự khiến người học
cảm thấy những lí thuyết được đưa vào giáo trình có phần xa lạ so với thực tiễn
văn học đang diễn ra.
2.3. Cuốn Vấn đề cơ bản của lí luận văn học (2004) do Đào Đông Phong chủ biên
Trong
số giáo trình lí luận văn học xuất hiện đầu thế kỉ 21 ở Trung Quốc, giáo trình
do Đào Đông Phong chủ biên được coi là cuốn giáo trình tấn công vào chủ nghĩa bản
chất trực diện nhất, giương cao ngọn cờ phản bản chất chủ nghĩa, mang đậm tính
chất hậu hiện đại. Ngay trong “Lời nói đầu” ông đã đưa ra mệnh đề về chủ nghĩa
bản chất: “Chủ nghĩa bản chất” là phương thức tư duy và mô hình sản xuất tri thức
đông cứng, khép kín, độc đoán. Trên phương diện bản thể luận, chủ nghĩa bản chất
không phải là giả định sự vật có bản chất nhất định mà là giả định sự vật có bản
chất vĩnh hằng, phổ biến, phi lịch sử (thực tại tuyệt đối, nhân tính phổ biến…).
Loại bản chất này không thay đổi theo thời gian, không gian; trên phương diện
tri thức luận, chủ nghĩa bản chất xây dựng đối lập nhị nguyên với hạt nhân là
hiện tượng và bản chất, kiên trì chân lí tuyệt đối”[3]. Đào Đông Phong cực lực
phản đối tư duy bản chất chủ nghĩa, phản đối việc trình bày các tri thức lí luận
phi thời gian, không gian, vĩnh hằng, bất biến, đúng cho mọi trường hợp. Vì thế,
ông đã chủ biên tổ chức một bộ giáo trình thể hiện đậm nét đặc trưng của chủ
nghĩa phản bản chất.
Giáo trình
do Đào Đông Phong chủ biên bao gồm các chương: Văn học là gì (Khó khăn trong định
nghĩa về “văn học”, Sự ra đời và diễn biến của khái niệm “văn học”, Sự trưởng
thành của khái niệm văn học, Phát triển đa nguyên và mở rộng của khái niệm văn
học), Văn học và phương thức tư duy (Các loại hình tư duy văn học, Lí thuyết tư
duy văn học trong hệ thống văn luận cổ đại Trung Quốc, Lí thuyết tư duy văn học
trong hệ thống thi học phương Tây); Văn học và thế giới (Văn học “tái hiện” thế
giới, Từ thuyết mô phỏng đến lí luận chủ nghĩa hiện thực, Mô hình lí luận tác
giả trung tâm, Mô hình lí luận văn bản trung tâm và diễn biến của nó, Từ thuyết
ngôn chí đến lí luận ý cảnh); Ngôn ngữ văn học, ý nghĩa và diễn giải (Ngôn truyền
và ý hội, Ý nghĩa và diễn giải); Thể tài văn học và phong cách văn học; Truyền
thống và sáng tạo trong văn học (Thông và biến của văn học, Tranh luận cổ kim,
Truyền thống và cách tân, Cái chết của tác giả và lí luận liên văn bản); Văn học
và văn hóa, Đạo đức và các hình thái ý thức khác), Văn học và căn cước (Văn học
và căn cước giới tính; Văn học và căn cước dân tộc). Cuốn giáo trình này còn
trích xuất ra các từ khóa trong mỗi chương, cuối mỗi chương ngoài yêu cầu giải
thích một số thuật ngữ cơ bản còn có các câu hỏi mang tính gợi mở giúp người học
nắm được những vấn đề cơ bản của chương và mở rộng tư duy.
Đào Đông
Phong cố gắng thoát li tư duy bản chất chủ nghĩa, chú trọng không gian và thời
gian xuất hiện tri thức lí luận. Đào Đông Phong đã thay đổi toàn bộ kết cấu cơ
bản của giáo trình lí luận văn học, từ bỏ việc tìm kiếm quy luật phổ biến, đặc
điểm bản chất của những hiện tượng văn học. Giữa các chương của giáo trình
không có tuyến logic xuyên suốt từ đầu đến cuối như kết cấu giáo trình truyền
thống, thay vào đó là kết cấu theo vấn đề. Bộ giáo trình đã giới thiệu các nhà
lí luận ở các thời đại khác nhau, trình bày các quan niệm ở các thời đại khác
nhau về cùng một vấn đề lí luận văn học, tìm ra ý thức hệ và diễn ngôn quyền lực
ẩn sau những vấn đề đó trong ngữ cảnh lịch sử cụ thể… Giáo trình không đưa ra
các chân lí thuyết đối, chủ trương đa nguyên, dân chủ để người học tự suy nghĩ,
bồi dưỡng quan niệm văn học mở.
Cuốn giáo
trình do Đào Đông Phong chủ biên có nhiều điểm cấp tiến nhưng cũng có không ít
bất cập. Ưu điểm rõ nhất của giáo trình này là đã phá bỏ việc biên soạn giáo
trình theo chủ nghĩa bản chất siêu hình, sử dụng phương pháp lịch sử, tư tưởng
giải cấu trúc, có giá trị rất lớn trong việc dẫn nhập lí luận hậu hiện đại vào
giáo trình lí luận văn học, giúp người học ý thức rằng, có nhiều cách hiểu,
cách lí giải khác nhau về cùng một vấn đề văn học, cần chú ý đến tính lịch sử,
tính địa phương của lí thuyết. Tuy nhiên, tư tưởng của Đào Đông Phong rất khó
thực hiện triệt để trong khuôn khổ một giáo trình. Giáo trình này hợp với đối
tượng sau đại học hơn là sinh viên đại học, hoặc nói cách khác, nó là sự tìm
tòi nằm ngoài thể chế môn học.
2. 4. Lí luận văn học tân biên
(2010) và Tân biên lí luận văn học (2011)
do Đồng Khánh Bính chủ biên
Sang thế kỉ
21, ở Trung Quốc nhiều bộ giáo trình khuếch trương ngọn cờ phản bản chất chủ
nghĩa, hướng tới xóa bỏ bản chất chủ nghĩa trong biên soạn giáo trình, chú trọng
tính lịch sử của tri thức. Tuy nhiên chỉ miêu tả, giới thiệu, không khái quát
cũng là một kiểu cực đoan. Cuốn giáo trình do Đào Đông Phong chủ biên ít nhiều
cũng có biểu hiện cực đoan đó. Đồng Khánh Bính chủ trương xây dựng bộ giáo
trình hướng tới phê bình văn bản cụ thể, hướng tới thực tiễn văn học. Ông chủ
trương giải thích văn học từ ba góc độ: ngôn ngữ, thẩm mĩ và văn hóa. Văn học
là nghệ thuật ngôn từ, văn học đã kiến tạo không gian thẩm mĩ đầy chất thơ, nhưng
văn học cũng là sản phẩm của văn hóa, mang nội hàm văn hóa như thần thoại, tôn
giáo, lịch sử, khoa học, luân lí, đạo đức, chính trị, triết học…
Giáo trình Lí
luận văn học tân biên (2010), tái bản lần 3 gồm 13 chương: Văn học và lí luận
văn học, Văn học và ngôn ngữ, Văn học và thẩm mĩ, Văn học và văn hóa, Văn học
và trữ tình, Tự sự văn học, Văn học và kịch, Sáng tác văn học, Tiếp nhận văn học,
Phê bình văn học, Phong cách văn học, Trào lưu văn học, Tương lai của văn học. Điểm
đáng chú ý của giáo trình này là đã nhấn mạnh đặc tính thẩm mĩ, tính tự luật của
văn học, thay đổi quan niệm phản ánh cũ; chú trọng nâng cao năng lực đọc văn bản
của học sinh; mở rộng biên giới của nghiên cứu và giảng dạy lí luận văn học, hướng
tới nghiên cứu liên ngành của thi học văn hóa. Tuy nhiên, ông vẫn khẳng định
nghiên cứu lí luận văn học có đối tượng đặc thù, không thể đồng nhất với nghiên
cứu xã hội học văn hóa. Ở phương diện dạy học lí luận văn học, ông chủ trương
trở về với việc đọc và giảng dạy nguyên tác kinh điển. Điều này cho thấy ông đã
cố gắng thoát li phương pháp biên soạn giáo trình thiên sang đưa ra các khái niệm,
các kết luận phi lịch sử, phi ngữ cảnh. Trong giáo trình lí luận văn học cũ, những
thứ có vẻ hoàn chỉnh, hệ thống thực ra lại là thứ xa rời thực tế, xa rời “chân
tướng” vốn có. Quay trở lại hướng dẫn đọc nguyên tác kinh điển là một biện pháp
khắc phục hạn chế trên, tăng cường tính lịch sử cụ thể của tri thức lí luận. Mỗi
chương của giáo trình đều gồm hai phần: “Đọc văn bản kinh điển” và “Khái quát vấn
đề liên quan”. Phần “Đọc văn bản kinh điển” ông thường chọn hai bài của nhà văn
hoặc nhà lí luận phương Tây, phương Đông cổ kim, chú thích kĩ những văn bản
này, kèm theo giới thiệu về tác giả, bối cảnh tri thức, đọc hiểu văn bản, hướng
dẫn sinh viên thảo luận, phân tích, lí giải, tìm kiếm tinh hoa tư tưởng ẩn tàng
trong nguyên tác kinh điển. Đây là cách để Đồng Khánh Bính tạo ra sự liên kết
không gian và thời gian: phương Đông – phương Tây, cổ đại – hiện đại. Trong mỗi
chương còn có phần “Khái quát vấn đề liên quan”, thuyết minh mang tính bổ sung,
diễn giải một cách hệ thống về cùng một vấn đề.
Có thể thấy,
giáo trình Lí luận văn học tân biên (2010)
do Đồng Khánh Bính chủ biên vẫn lấy vấn đề thẩm mĩ làm trung tâm nhưng không
coi văn học là thứ thuần thuẩn mĩ, mà đã sử dụng góc nhìn văn hóa để nghiên cứu
văn học. Giáo trình tạo ra không gian tương đối rộng cho suy tư của người học,
đồng thời bồi dưỡng năng lực đọc nguyên tác kinh điển, bồi dưỡng năng lực tiếp
nhận tác phẩm cụ thể. Tất nhiên, bộ giáo trình này cũng còn một số hạn chế,
như: lựa chọn văn bản kinh điển còn thiên sang văn bản lí luận; tính sự kiện, lịch
sử, địa phương vẫn chưa thực sự rõ ràng; vẫn còn hỗn hợp giữa lí luận Đông Tây
kim cổ.
Trước hạn
chế của một số bộ giáo trình trong nước cũng như hạn chế của giáo trình do chính
mình chủ biên, năm 2011 Đồng Khánh Bính đã chủ biên cuốn Tân biên lí luận văn học với một thử nghiệm táo bạo. Các nhà biên
soạn giáo trình lí luận văn học ở Trung Quốc trước kia luôn tham vọng cung cấp
cho người học một hệ thống lí luận văn học chặt chẽ, có sức bao phủ rộng cả
phương Đông lẫn phương Tây, cả cổ đại lẫn hiện đại. Nhưng lí luận văn học
phương Đông và phương Tây vốn là hai hình thái lí luận văn học khác nhau về bản
chất và hệ thống, do đó khi dung hợp chúng thành một chỉnh thể rất dễ trở thành
miễn cưỡng, lắp ghép các mảnh vụn của nhiều tri thức lí luận. Để tránh hạn chế
trên, tăng cường khả năng đối thoại giữa hai hệ thống lí luận, Đồng Khánh Bính
đã mạnh dạn tổ chức giáo trình trên tư duy so sánh. Tân biên lí luận văn học gồm 5 phần, mỗi phần gồm hai chương, một
chương trình bày quan niệm của phương Đông, một chương trình bày quan niệm của
phương Tây, cuối mỗi chương đều có tiểu kết, từ khóa, vấn đề cần suy nghĩ và giới
thiệu tài liệu tham khảo; cuối mỗi phần đều có mục “So sánh đối thoại” giữa
phương Đông và phương Tây. Các phần của giáo trình cụ thể là: Văn học và thế giới,
Văn học và tác giả, Tác phẩm văn học, Văn học và độc giả, Giá trị của văn học.
Cách biên soạn này thực sự đã thể hiện quỹ đạo phát triển và bản sắc của lí luận
văn học phương Đông và phương Tây, tránh hiện tượng hỗn tạp, tập hợp diễn ngôn
lí luận văn học Đông - Tây, tăng cường tính lịch sử, sự kiện, địa phương của
tri thức lí luận, tăng cường vai trò chủ động của người dạy và người học.
3. Kết luận
Những bộ giáo trình trên đã thể hiện một cách sâu sắc
khát vọng đổi mới giáo trình lí luận văn học của giới nghiên cứu giảng dạy
Trung Quốc đầu thế kỉ 21. Họ muốn xóa bỏ chủ nghĩa bản chất, tăng cường tính lịch
sử, tính sự kiện, tính địa phương của tri thức lí luận; kết hợp giữa nghiên cứu
nội tại văn bản với nghiên cứu văn hóa; cập nhật thành quả lí luận văn học mới
nhất trên thế giới; kết hợp giữa lí luận văn học phương Tây với lí luận văn học
truyền thống; so sánh đối thoại giữa lí luận văn học truyền thống với lí luận
văn học phương Tây.
Mặc dù nỗ lực đổi mới giáo trình lí
luận văn học ở Trung Quốc đạt được những thành quả quan trọng, nhưng vẫn còn tồn
tại không ít hạn chế. Xét từ phương diện người học, những kiến thức trong giáo
trình vẫn còn trừu tượng, giáo trình ít phân tích ví dụ cụ thể và những ví dụ
được trích dẫn phân tích mặc dù rất điển hình nhưng lại quá cũ, ít khi lấy từ
thực tiễn văn học đang diễn ra. Ngoài ra, những người viết giáo trình vẫn chưa
thực sự chú ý đến nền tảng tri thức và năng lực tiếp nhận của sinh viên, khối
lượng tri thức và cách trình bày còn tương đối hàn lâm. Ngay bộ giáo trình Lí luận văn học tân biên (2010) do Đồng
Khánh Bính chủ biên cũng phải có một cuốn sách hướng dẫn dành cho giáo viên. Những
nội dung mới hoặc có tính liên ngành như văn học mạng, văn học trên điện thoại,
văn học điện ảnh vẫn còn chưa thực sự được chú ý trong khung tri thức của giáo
trình. Thành công và hạn chế trong tìm tòi đổi mới giáo trình lí luận văn học ở
Trung Quốc những năm đầu thế kỉ 21 có giá trị gợi ý bổ ích cho việc chỉnh sửa,
biên soạn giáo trình lí luận văn học ở Việt Nam trong những năm tới.
(Bài đã đăng trên Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm Hà Nội, số 1 năm 2018, tr 27-33)
Tài liệu tham khảo
[1] Đồng
Khánh Bính chủ biên, 2010. Lí luận văn học
tân biên, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Bắc Kinh, Bắc Kinh.
[2] Đồng
Khánh Bính chủ biên, 2011. Tân biên lí luận
văn học, Nhà xuất bản Đại học Nhân dân Trung Quốc, Bắc Kinh.
[3] Đào
Đông Phong chủ biên, 2007. Vấn đề cơ bản
của lí luận văn học. Nhà xuất bản Đại học Bắc Kinh, Bắc Kinh.
[4]
Bành Linh, 2014. Vấn đề tồn tại của dạy học
lí luận văn học và tìm kiếm đối sách trong “thời đại đọc hình ảnh”. Tạp chí
Khoa học Học viện Khoa học Kĩ thuật Nhân văn Hồ Nam, số 6.
[5] Nam
Phàm chủ biên, 2002. Lí luận văn học (bản
mới), Nhà xuất bản Văn nghệ Triết Giang, Triết Giang.
[6] Vương
Nhất Xuyên, 2011. Lí luận văn học.
Nhà xuất bản Đại học Tứ Xuyên, Tứ Xuyên.
RENOVATION OF THE CURRICULUM OF CHINESE LITERARY THEORY IN THE EARLY 21ST
CENTURY
Summary:
In
the 21st century, the economic, cultural and social life in China has changed significantly,
the market economy, consumer society, modern media development ... That has a
great impact on the literary creativity, the psychology of students to receive literature
in general and the subject of literature theory in particular. The old
curriculum of literature theory has exposed the limitation, theoretical
knowledge in the curriculum did not explain some new literary phenomenon. In
this situation, researchers and teachers in China have investigated and
renovated the curriculum of literature theory in terms of conception of writing
textbooks, the structure and content of specific knowledge. This article
introduces several textbooks of literature theory that are typical for
renovation of the basic curriculum in China early 21st century with
the purpose of searching ideas for renewing the literature theory curriculum in
Vietnam today, they are textbooks of Nan-fan, Tao Dong-feng, Wang Yi-chuan, Tong
Qing-bing.
Keywords: Literature theory, Curriculum,
Vietnam, China
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét