Sự phát triển của lí luận phương tây mới
nhất không phải vì chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa hậu hiện đại, chủ nghĩa hậu thực
dân, nghiên cứu văn hóa không ngừng làm mới mà dừng lại. Cuối thế kì 20, “văn
hóa sinh thái” của phương Tây và lí luận “phê bình sinh thái” từ phát sinh phát
triển đến dần dần lan rộng trên toàn thế giới, đã trở thành một phương pháp
nghiên cứu lí luận văn nghệ mới mang tính liên ngành. Đương nhiên, về nguồn mạch
của lí luận này, có thể nói, văn hóa sinh thái và phê bình sinh thái không phải
đơn giản là nghiên cứu văn học về mối quan hệ giữa con người và môi trường, mà
thuộc về lĩnh vực lí luận mới được khai phá trong phạm vi lớn liên quan đến
nghiên cứu văn hóa. Điều này biểu hiện rõ nhất trong một số vĩ độ chủ yếu sau:
nghiên cứu lí luận phương tây đương đại đã bước vào “thời kì sự ra đời của lí
luận chậm lại”, lí luận phê bình văn học phương tây không còn hiện tượng liên tục
ra đời bất tận những lí thuyết mới, mà là “thế giới” được quay trở lại nhìn nhận
song trùng thân phận tự nhiên và xã hội, thể hiện giá trị mô phỏng của văn nghệ
đối với hình thức tự nhiên; nghiên cứu lí luận phê bình văn nghệ vẫn chưa định
hình, vẫn đang chú trọng lịch sử mới, nắm vững góc độ thẩm mĩ và nền tảng văn hóa
không ngừng tìm kiếm cái mới trong quan hệ hình thái ý thức chính trị, chủng tộc
xác định và giới tính, xác định lại hình thái khoa học lí luận bản thân; sự ra
đời của lí luận phương Tây có những đại sư có sức ảnh hưởng trên toàn thế giới
ít đi, văn bản lí luận kinh điển cũng ít đi, lí luận phương Tây đương đại bước
vào cái mà người ta gọi là “thời kì hậu lí luận” hoặc thời đại “chung kết lí luận”.
SỰ XUẤT HIỆN CỦA VĂN HÓA
SINH THÁI VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA NÓ
Sự xuất hiện của lí luận sinh thái có gắn với hai nguy cơ lớn của toàn cầu hóa, thứ nhất là thế giới ngày nay
nguy cơ sinh thái tự nhiên đang ngày một xấu đi, thứ hai là nguy cơ sinh thái
tinh thần nhân văn trong xã hội tiêu dùng hiện đại của nhân loại. Hai nguy cơ
này đều xuất phát từ hậu quả của tính hiện đại.
I.
Sự
mất gốc của văn hóa hiện đại và căn bệnh của chủ nghĩa tiêu dùng
Cái được gọi là tính hiện đại chỉ chừng
500 năm ngắn ngủi, phương tây trước đó là “trung thế kỉ đen tối”. Thời kì sau của
phong trào Phục Hưng và cải cách tôn giáo tấn công vào nền thống trị của giáo hội
phong kiến châu Âu, mở đường cho chủ nghĩa tư bản và khoa học kĩ thuật ra đời.
Từ thế kỉ 18, sự phát minh ra máy hơi nước làm cho tính hiện đại phương Tây bắt
đầu gia tốc. Nhiệt lực học thế kỉ 19, lí luận điện từ trường, thuyết tiến hóa
sinh vật khiến phương Đông trở thành “đế quốc ngưng trệ” đông cứng, còn phương
tây mang tính hiện đại trở thành “trung tâm quyền lực diễn ngôn” của nhân loại:
sự phát minh ra máy ảnh khiến cho việc vẽ đối tượng giống thực của họa sĩ trở
nên không cần thiết; sự xuất hiện của điện ảnh đã thay đổi phương thức cảm giác
và phương thức thị giác của nhân loại. Thế kỉ 20, sự xuất hiện của các công cụ
như máy bay, vệ tinh thông tin, tivi, máy tính… và sự kiện con người lên mặt
trăng càng khiến phương tây có được bá quyền diễn ngôn trong lĩnh vực kĩ thuật,
quân sự, kinh tế. Tính hiện đại và phát minh khoa học kĩ thuật và thực dân nhân
loại có liên quan mật thiết với nhau, chỉ trong 200 năm đã khiến phương tây trở
thành bá chủ thế giới.
Làn sóng “tây hóa toàn cục” của các nước
phương Đông do sự mở rộng của tính hiện đại đã được lịch sử trăm năm chứng minh
không phải là phúc âm của phương Đông, mà là bắt đầu sự đơn diện hóa và dị hóa
của nhân loại. Vấn đề mà nhân loại vấp phải, chiến tranh hạt nhân cũng đúng, sự
cạn kiệt về tài nguyên cũng đúng, ô nhiễm môi trường cũng đúng, sóng thần, sự
va đập của các hành tinh vào trái đất cũng đúng, đều nói với nhân loại một sự
thực, sự bành trướng cực độ của tính hiện đại sẽ quay lại hủy diệt nhân loại.
Tính hiện đại cùng với việc hứa hẹn cuộc sống tươi đẹp, cũng mang đến quá nhiều
tai họa sinh thái: nguy cơ sinh thái tự nhiên, nguy cơ sinh thái xã hội, nguy
cơ sinh thái văn hóa, làm cho rừng bị hủy diệt, đất bị sói mòn, giống loài
thoái hóa, tinh thần thất lạc, đạo đức xuống cấp, tâm thái mất cân bằng, tạo ra
tai họa lớn về sinh thái uy hiếp sự sinh tồn của nhân loại”. (1). Đối diện với
chủ nghĩa tiêu dùng và chủ nghĩa bá quyền văn hóa làm mất cân bằng sinh thái
tinh thần, các nhà triết học đã đề xướng phương thức khôi phục tinh thần mang ý
nghĩa sinh thái văn hóa đó là quay trở lại với tự nhiên cảm nhận sự sống trên trái đất.
Ngày nay, ngoài nguy cơ sinh thái tự
nhiên, trong phạm vi toàn cầu con người còn tạo ra 900 vạn người máy, người máy
thông minh đã đến gần 50 vạn, căn cứ vào kĩ thuật hiện nay có thể nhân ra hơn
4000 vạn trong khoảng trên dưới 10 năm,
trong khoảng một nửa thế kỉ sẽ trở thành một đội “quân sắt” trên thế giới,
nhỡ không thể khống chế được thì trên chỉnh thể có thể nguy hại đến sự sinh tồn
của loài người.
Năm 1972, câu lạc bộ La Mã đã viết một bài
rất nổi tiếng về nguy cơ của nhân loại “Giới hạn của trưởng thành”. Báo cáo cho
rằng, kinh tế quá nóng và tăng trưởng nhân khẩu nếu như không khống chế một
cách có hiệu quả thì trái đất và con người sống trên trái đất do ô nhiễm môi
trường và không đủ lương thực mà bị hủy
diệt trong vòng 100 năm. Báo cáo giống như một hòn đã làm dào lên những đợt sống
kinh động toàn cầu. Sau đó các nước trên thế giới thông qua các biện pháp giải
trừ quân bị, giảm tốc độ phát triển kinh tế, khống chế tăng trưởng dân số, chú
trọng lợi dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường… hòng tránh được hoặc kéo dài vận
mệnh của nhân loại. Nhưng trái đất chịu gánh nặng quá lớn và trạng thái lâm
nguy của cực hạn trưởng thành của nhân loại vẫn chưa được hóa giải, hơn nữa
còn ngày càng xấu đi.
Sinh thái tinh thần của nhân loại gặp phải
nguy cơ chưa từng có. Dưới sự dẫn dắt của tính hiện đại phương tây, bất luận là
người châu Á hay là người châu Phi, họ đều đang đi tới “thời đại làm mới lí luận”
và “thời đại thể nghiệm thân xác”. Vì thế, thăng cấp, đột phá, mở rộng, cảm
giác nhục thể, chủ nghĩa tiêu dùng đang trở thành quỹ tích tinh thần của con
người thời đại này. Người đương đại trở thành người trung gian thoát xác từ “thời
đại kinh nghiệm” cũ và ngưỡng vọng “thời đại lí luận”, họ từ phương thức diễn
ngôn đời sống, mô hình hành vi đời thường, thái độ thời thượng hiện nay, làm
cho cuộc sống vui chơi giải trí hóa, văn hóa thời thượng hóa, sinh
mệnh nhục thể hóa, tinh thần bình diện hóa. Thế là, trong thường nhật hóa đời sống
của “nhân loại mới mới”, thay đổi tưởng tượng của người đương đại, sắc thái và
khí chất của đô thị, môi trường xung quanh và vận động tư duy.
Chủ nghĩa tiêu dùng không ngừng tạo ra tâm
lí “điên cuồng theo đuổi cái mới”, tập trung biểu hiện ở việc say mê “nâng cấp
hóa”: máy tính nâng cấp, virus cũng nâng cấp; hòm thư đang nâng cấp, thư rác
cũng nâng cấp; trò chơi nâng cấp, hacker cũng nâng cấp; chủ nghĩa tiêu dung
nâng cấp, chủ nghĩ khủng bố cũng nâng cấp; thân thể nâng cấp thời thượng
(baozou, Lomo, Street Dance, Xăm hình), tinh thần lại đang xuống cấp (bệnh
điên, tỉ lệ tự sát, nghiện rượu, lối viết phần dưới cơ thể); nhục thể đang
thăng cấp nhân tạo (màu tóc, giảm béo, thẩm mĩ), linh hồn lại xuống cấp trầm trọng;
phương thức tự do vô biên của đời sống đang không ngừng nâng cấp đa nguyên,
sinh thái tinh thần lại đang bại hoại. Làm thế nào làm cho nâng cấp không trở
thành hình thức vô hạn bên ngoài, làm cho sinh mệnh không qua đi trong nháy mắt
một cách không có giá trị hàm lượng, mà là thực sự thực hiện được sự cân bằng
sinh thái tinh thần và tồn tại của con người, con người còn phải hướng tới chiều
sâu trong suy nghĩ, tư tưởng.
Trong sự phát triển nhanh và cuồng hoan tiêu dùng bất chấp tín
ngưỡng vài thế kỉ, loài người không ngờ phải đối mặt với hai hiện trạng nghiêm
trọng: một là “vấn đề cắt đứt với văn hóa truyền thống trong “xung đột cổ kim”,
một vấn đề khác là ý thức hạnh phúc giả tạo của “giai cấp trung tư sản mới”(1).
Con người đối mặt với cục diện thành
thị lớn phát triển nhanh, nông thôn dần dần thu nhỏ, tạo nên vấn đề va chạm hai
hướng giá trị nông thôn thành thị liên đới.
Một mặt, nhân khẩu nông thôn chuyển
tới thành thị, giá trị nông thôn, niềm tin quê hương và phương thức sống ở nông
thôn tiền hiện đại mang đến ấn tượng sâu đậm đã vấp phải sự va chạm và công kích
của phương thức sống đa nguyên của thành thị. Do xã hội nông nghiệp buộc phải
chuyển hướng sang xã hội công nghiệp trong sự phát triển của nhân loại, nên
trong sự chuyển hướng này, nông dân nằm ở tầng diễn ngôn chưa dứt nhưng không
thể thực sự xâm nhập của quyền lực xã hội. Sự di dân lìa bỏ nông thôn trở thành
sự giải thể xã hội nông thôn hiện đại tính trong phạm phi toàn thế giới, trung
tâm gia tộc biến mất, lí tính tập thể thay bằng sự bắt đầu tính hợp pháp của chủ
nghĩa bản vị cá nhân.
Mặt khác, trrong tầng lớp trí thức, giai
cấp tư sản bậc trung mới đã xuất hiện hiện tượng nhục thể con người sắp đặt
trong không gian kiến trúc to lớn, nhưng lại không tìm thấy nơi để tinh thần
trú ngụ. Cuộc sống mất đi tín ngưỡng trong sự mất đi ý nghĩa khiến tiền bạc trực
tiếp trở thành tín ngưỡng của con người đương đại, cùng với sự thăng cấp nhiều
lần của tiền bạc, con người không ngừng cảm thấy ngày càng rời xa hạnh phúc có ý
nghĩa siêu việt. Các tầng lớp nhân sĩ đương đại phần rất lớn không thể
nói được bản thân có hạnh phúc hay không, vì sao hạnh phúc hoặc bất hạnh – bất
hạnh của con người mất đi gia viên ở đâu cũng có, bất hạnh sống trong nhà cao cửa
rộng cũng mất đi cảm giác sống. Như vậy, cuộc sống hạnh phúc làm thế nào mới có
thể có? Liệu có phải trong tưởng tượng “nâng cấp”, nhà cửa càng nhiều, tiền bạc
càng nhiều thì nhất định càng hạnh phúc? Trạng thái thiếu thốn hạnh phúc ấy, đã
dẫn đến một vấn đề to lớn – chủ nghĩa tiêu dùng.
Chủ nghĩa tiêu dùng đã tạo ra ý thức coi
những thứ của người khác là của mình, tức là mãi mãi có được thương phẩm tốt nhất,
coi sự hưởng thục thế tục được mọi người trên toàn thế giới chú ý là của mình. Nhưng
chủ nghĩa tiêu dùng có tính lừa dối song trùng. Con người trước kia trọng hạnh
phúc, bây giờ thích nói về tự do. Dường như bây giờ mỗi người đều có thể tự do
lựa chọn con đường của mình. Chỉ cần có tiền là có thể chọn bất kì vật phẩm nào
nằm trong sức mua và sức thăng cấp của mình, từ đó cũng nâng cấp cuộc sống của
mình; dường như đã mang đến tự do cho người tiêu dùng thì hoàn toàn giải quyết
vấn đề tự do. Kì thực không phải như vậy. Chủ nghĩa tiêu dùng trong thời hậu
công nghiệp trong lời hứa liên quan đến phúc lợi, hạnh phúc, đã thiết lập mệnh
đề giả tạo mà không hề hay biết. Sự lừa dối của chủ nghĩa tiêu dùng nằm ở: đồng
ý (yunnuo) là tính phổ biến của hạnh phúc – dường như mỗi người đều có thể tự
do lựa chọn. Tính lừa dối khác nằm ở mệnh đề giả tạo được nó thiết lập: Một khi
bạn mang đến tự do cho người tiêu dùng, bạn có thể hoàn toàn giải quyết vấn đề
tự do. Như vậy, tự do trên thực tế bị quy giản thành để tiêu dùng, nó bị coi nhẹ
thành “nguyên tắc thực hiện bản thân (tự ngã). Là con người, sự thực hiện tự
ngã không phải chỉ cần vật chất là có thể thỏa mãn được. Thỏa mãn vật chất chỉ
là tầng cơ bản, còn sự thỏa mãn của tinh thần, thỏa mãn căn cước và thỏa mãn
thực hiện giá trị càng không dễ dàng. Sự điên cuồng tinh thần của không ít người
đương đại không phải bắt nguồn từ sự thiếu thốn về vật chất, mà là vì sự trống
rỗng của tinh thần và sự loãng hóa gen giá trị. Xã hội tiêu dùng coi việc ra sức
giành lấy của cải làm mục đích, không ngừng tạo ra nhu cầu dục vọng mới cho đại
chúng. Trong bối cảnh lịch sử cá nhân giầu lên, cuộc sống mà mọi người đều cảm thấy
hạnh phúc chính là mua sắm và tiêu dùng nhiều hơn, bản thân tiêu dùng trở thành
sự thể hiện hiện thực của cuộc sống hạnh phúc, trở thành sân chơi diễn ngôn mà
mọi người thi nhau trèo cao, thi nhau khoe khoang. Đối diện với sự sùng bái
hàng hiệu của cuộc sống chủ nghĩa tiêu dùng, chủ nghĩa trung tâm tiêu dùng,
huyên náo và tham lam… con người bắt đầu phản tỉnh ý nghĩa của cuộc sống, của
sinh mệnh, thể nghiệm được đời sống thời đại thông tin là “cuộc sống phức tạp”
do trí giả dẫn đến, nó không thể làm cho linh hồn và thân xác hài hòa, mà chỉ
làm cho người người mất đi linh hồn.
Bức
tranh này sẽ xuất hiện ngay trước mắt chúng ta như thế này: sự thay đổi rất lớn
của khoa học kĩ thuật đương đại, không gian đô thị, cuộc sống thường nhật sẽ
làm cho phương thức cảm tri, quan niệm giá trị, mô hình hành phi, phương thức
giao lưu, quyền lợi thân thể, vấn đề sinh tử, không gian ảo và luân lí phổ thế
của con người đang đại phát sinh rạn nứt và lệch vị trí. Ngày nay sự thô tục của
ngôn ngữ “internet hóa” và sự không chờ mà đến của “thổ dân”(shanzu) làm cho bức
tranh đương đại càng thêm vô cùng phức tạp. Trong thời đại máy tính, phạm vi thể
nghiệm nhục thể dần dần thu nhỏ, chức năng cảm quan khác ngày một hoang phế, cảm
giác nhục thể thường chỉ còn cách đạt đường thông qua con đường không bình thường.
Loại cảm giác nhục thể này cho thấy nó hoàn toàn từ bỏ truyền thống và sự khuếch
trương không giới hạn cuộc sống tự do khác loại của bản thân. Thời đại “nâng cấp”
ngày nay, cơ cấu giáo dục lớn và cơ chế văn hóa nghệ thuật này đã rất khó khăn
trong việc ngăn cản những điều mà thanh niên nghĩ và làm, vì họ vững tin vào
hai điều: một là tự do khác loại, hai là tự do không giới hạn.
“Sự mất gốc văn hóa” do sự đứt đoạn của
phương thức sống và sự thay đổi quan niệm mang đến, trong một thế kỉ duy trì sự
chấn động tiến vào tâm linh con người hiện đại. Trong sự thay đổi đô thị hiện đại
hóa, những di dân gặp phải sự công kích và điều chỉnh phương thức sống, quan niệm
tư tưởng, mô hình văn hóa của bản thân, đồng thời cùng với sự di dân, phương thức
thẩm mĩ nghệ thuật của họ cũng thay đổi rất nhiều. Sự thay đổi sâu sắc này lưu
lại tính khả năng mới cho kiến tạo mĩ học sinh thái, mang lại không gian tưởng
tượng phong phú để người hiện đại nhớ nông thôn, hoài niệm nông thôn, về nông
thôn. Đối diện với thời đại “nâng cấp” (update), chúng ta không nên chỉ cảm thấy
bước chân tiến lên của thời đại trong sự thay đổi cực lớn của thế giới, mà còn
nên nhìn thấy bức tranh chỉnh thể của thế giới tương lai trong sự cân bằng sinh
thái tinh thần. Trước khi vấn đề hiện đại hóa và nông thôn chưa thực sự tương
tác, mâu thuẫn kịch liệt giữa nông thôn và thành thị chưa được thực sự coi trọng,
chỉ bàn luận hiện tượng “nâng cấp” cảm giác thân thể của nhân loại mới mới là
không đủ. Chỉ có sự phát triển hài hòa của một dân tộc, sự phát triển cân bằng
của một quốc gia, mâu thuẫn giữa nông thôn và thành thị có con đường giải quyết
hợp lí hóa, thì đồng thời với sự nâng cấp cảm giác thời tượng cảm giác thân thể,
tinh thần cũng có được đường sống mạnh mẽ để nâng cấp, “sự nâng cấp tâm hồn và
nhục thể” như vậy mới có thể duy trì ý nghĩa của sự phát triển, mới có căn cứ
giá trị của sự cân bằng sinh thái tinh thần đương đại.
Thực ra, người phương tây trong tai nạn
mang tính hiện đại đã nhận ra bao nhiêu nguy hại của việc “tát ao bắt cá”, “giết
gà lấy trứng”, “coi trọng cái lợi trước mắt”, đã bắt đầu phản tỉnh bản thân và
biết tìm đường về - tán dương “văn hóa sinh thái”. Điều này có nghĩa là trong
việc dọn dẹp tai nạn mang tính hiện đại, các triết gia phương tây bắt đầu con trọng
việc khai triển độ sâu của tính người và nâng cao tinh thần văn hóa, vững tin
vào việc hoàn cảnh tự nhiên của sinh thái học đã xuất hiện vấn đề buộc phải sửa
chữa. Cuối thế kỉ trước đầu thế kỉ này, phương tây đã xuất hiện một xu hướng mới
– giải tỏa các đập nước lớn…. . Năm 1994, bộ khai hoang Mĩ tuyên bố: “Thời
đại đập chứa nước của Mĩ đã kết thúc rồi”. Tháng 3 năm 1997, dân chúng của
phong trào chống đập nước toàn cầu tập trung ở thành phố Curitiba của
Barazil phát động phong trào chống đập
nước lớn Brazil và phát biểu tuyên ngôn Curitiba, đánh dấu mốc trong phong trào
chống xây dựng đập nước, ủng hộ bảo hộ sinh thái sông ngòi và tài nguyên nước để
tiếp tục tận dụng. Theo điều tra hơn 200 trạm phát điện lớn toàn cầu của Ủy ban
đập nước lớn quốc tế, từ năm 1998 đến năm 2001, tổng kết một số ảnh hưởng phụ:
đập nước toàn cầu tạo nên 4000-8000 vạn di dân, làm cho khu vực đó bần cùng
hóa, đập nước lớn làm mất đi hệ thống sinh thái, hơn nữa còn làm mất đi văn hóa
bản địa nơi đó. Tháng 3 năm 2003, nước Mĩ bắt đầu dỡ bỏ hai đập nước lớn ở Maine,
từ đó mà cá hồi hoang dã của đại tây dương quay trở về, mang đến điều kiện cho
cá nước lợ, côn trùng, các loại chim và sinh vật khác quay trở về dòng chảy tự
nhiên và sự tuần hoàn của nước làm tổ, sinh sản và di chuyển. Đập nước sản phẩm
của công nghiệp hóa đã khiến sinh thái bị phá hoại rất lớn. Người Mĩ ý thức được
việc xây dựng hai đập lớn không phải là điều tốt của nhân loại, cho nên bắt đầu
dỡ bỏ đập. Theo tài liệu ghi chép, người Mĩ đã dỡ bỏ hơn 500 đập nước. Có thể
nói, từ việc xây đập đến phá đập, nhân loại gặp phải hai lần báo thù của tự
nhiên, bắt đầu ý thức nên ghìm cương trước vực thẳm.
II.
NHÌN
THẲNG VÀO NGUY CƠ SINH THÁI TỰ NHIÊN VÀ NGUY CƠ SINH THÁI TINH THẦN CỦA NHÂN LOẠI
Theo tôi, vấn đề văn hóa
sinh thái là sự khảo biện khoa học liên ngành về vận mệnh nhân loại và tự
nhiên, là sự bắt đầu sau khi nhân loại phản tư sinh thái tự nhiên, tiến tới phản
tư sinh thái văn hóa. Quan niệm tự nhiên sinh thái được người phương tây trên vấn
đề tính hiện đại ý thức được không thể tiếp tục như người mù sờ voi, ngược lại
bắt đầu nghiên cứu văn hóa sinh thái, triết học sinh thái, mĩ học sinh thái,
nghệ thuật sinh thái. Điều này có nghĩa là nghệ thuật truyền thống bị tính hiện
đại trấn áp nên trở lại tăng thêm bình giá, giải thích giá trị tâm linh nhân loại
của nó.
Tính hiện đại bao gồm
“tính hiện đại chế độ” và “tính hiện đại thẩm mĩ”, hai tính hiện đại này thường
phát sinh đối lập và chia cắt. “hiện đại hóa chế độ” khiến con người không ngừng
dị hóa. Trước kia chế tạo một gốc vít, từ nung sắt đến thành phẩm một người
hoàn thành. Con người trong thực hiện bản kế hoạch ban đầu đến sản phẩm cuối
cùng, đã thể hiện tính hoàn mĩ của việc sáng tạo bản thân. Nhưng hiện nay giống
như vở “Thời đại trèo cao” do Chaplin biểu diễn, con người bị phân công thành
chiếc ốc vít cả đời chỉ biết vặn, con người chỉ là một công đoạn trong dây chuyền
sản xuất lớn mang tính hiện đại, con người đã bị “dị hóa”. Trong tính hiện đại
chế độ, sau khi con người “dị hóa”, tính hiện đại thẩm mĩ của nghệ thuật không
muốn “dị hóa” theo, liền bắt đầu phản kháng “dị hóa”. Do tính hiện đại thẩm mĩ lấy phơi bày phản kháng
“dị hóa” làm cương lĩnh, phương thưc hản kháng của nó là chuyển “thẩm mnix” nghệ
thuật thành “thẩm xú” – không muốn nhìn thấy nghệ thuật xưa ca tụng vẻ đẹp của
cuộc sống điền viên, mà biến nghệ thuật thành nghệ thuật của “sự phản kháng” –
nghệ thuật biểu trưng cái xấu hơn cả hình thái cuộc sống: con người trong tranh
của trường phái lập thể đã trở thành con người có ba mắt; con người trong “Hô
hào” của Edvard Munch đứng ở đầu cầu kinh hoàng cực độ, đến mức mắt, đầu đều biến
hình lớn; tranh của “trường phái dã thú” trong sự khoa trương biến hình thể hiện
ra nỗi sợ chiến tranh và lo sợ về tương lai, tất cả đều là xấu xí.
Thẩm mĩ truyền thống là vẻ đẹp hài hòa
“thiên nhân hợp nhất”, cho dù là nghệ thuật phương tây hay là nghệ thuật phương
đông, nghệ thuật Hi La cổ hay nghệ thuật tiên Tần, hoặc là nghệ thuật thời đại
Phục Hưng, phần lớn đều là nghệ thuật đề cao cái đẹp. Con người tán thưởng sự
tinh diệu của “Sự ra đời của Weinasi”, “Mona Lisa”, “Người lái đò trên song
Fuerjia”, cảm động về sự thuần khiết của nhạc Bahe, Mozart, Beetoven. Nhưng đến
nghệ thuật hiện đại, nghệ thuật “bi thương” như alter Benjamin từng nói, nghệ
thuật “phản kháng” nhưng Herbert Marcuse nói, nghệ thuật phương tây đột nhiên
biến thành “xấu xí”: hội họa và âm nhạc sau khi bước vào tính hiện đại, liền biến
thành hình thức không hài hòa vô cùng nhức mắt, nhức tai. Đặc biệt vì, ở nghệ
thuật của Herbert Marcuse không còn là thẩm mĩ, nghệ thuật đã biến thành phản
kháng”.
Nên làm thế nào để nhìn nhận phương diện tốt
của văn hóa phương tây và cảnh giác với phương diện “xấu” đây? Nếu như làm cho
tất cả nghệ thuật trở nên bẩn, loạn, kém liệu có được không? Đương nhiên không
thể! Vì điều này ngoài trò chơi và giả trang, không có nhiều sự ra đời của tư
tưởng mới, không có sự định vị chính xác đối với hướng đi của toàn bộ lịch sử
văn hóa và lịch sử nghệ thuật phương tây. Thẩm “xú” là một kiểu phản kháng đối
với tính hiện đại của tính chế dộ phương tây, dùng “tính hiện đại thẩm mĩ” để
phản kháng “tính hiện đại chế độ” đang hướng đến phụ diện của mình – nghệ thuật
trở thành nghệ thuật ác tâm (phản cảm) mất đi giá trị của mình – nghệ thuật xấu
xí dần dần bị con người ghét và từ bỏ. Điều tôi muốn nói là, chúng ta không nên
đi theo phương tây trên con đường không có đường về, mà nên dùng tinh thần văn
hóa sinh thái xem xét lại tính khả năng phát triển tương lai của nghệ thuật thế
giới, một mặt yêu cầu cân bằng sinh thái tự nhiên, mặt khác yêu cầu cân bằng
sinh thái tinh thần con người. Con người thế kỉ mới vì sao phải làm cho mình
“phân liệt”, làm cho nghệ thuật trở thành điên cuồng? vì sao không thể vượt qua
tai nạn (biduan) của tính hiện đại phương tay để nhìn thẳng vào thân phận mình?
Vì sao không thể suy nghĩ tránh được cách làm thất bại đoạn liệt tính chế độ
theo kiểu “dị hóa” tính hiện đại phương tây, bắt đầu sửa chữa phục hồi đoạn liệt
tinh tinh thần của nghệ thuật nhân loại?
Mĩ học văn hóa sinh thái phải cấu tạo lại
phương thức sống giản đơn. Vì sự khuếch trương “thân thể” của chủ nghĩa tiêu
dùng và logic tiềm tại đồng chất hóa toàn cầu, làm cho chủ nghĩa tiêu dùng trên
toàn thế giới dần dần hiện rõ. Những người phản đối chủ nghĩa tiêu dùng, khuếch
trương phương thức sống sinh thái xanh cho rằng:cuộc sống hiện đại hóa hoặc cuộc
sống hiện đại không phải là nhà lầu, xe hơi, bệnh tật, hoang mạc, bão cát, cuộc
sống thực sự tốt đẹp không cần sự khắc trang sức của quá nhiều nhân công và sự
khoa trương vật chất quá thừa. Rất nhiều người phương tây ngày nay nhận thức được
hạn chế (biduan) của phương thức sinh tồn “thục mạng sản xuất, thục mạng tiêu
dùng”, trong giai cấp trung tư sản lặng lẽ dấy lên “cuộc sống giản đơn” – chuyển
nhà về nông thôn, tự đóng nhà gỗ, không sử dụng quá nhiều máy điện, kiếm “thu
nhập” có hạn, ra sức hưởng thụ không khí, ánh nắng trong đại tự nhiên. Các nhà
xã hội học cho rằng: “cuộc sống giản đơn quay trở về với cái thuần phác chân chất,
về với tự nhiên, “ít chính là nhiều” (less is more), trong thế kỉ 21 phải trở
thành không khí phổ biến. Có lẽ cuộc sống giản đơn, tiêu dùng giản
đơn cũng chính là giống như cuộc sống mộc mạc cuối đời của Tolstoi có thể sẽ lại
thể hiện sức hấp dẫn của tinh thần.
Sự phát triển văn hóa nhân loại thế kỉ mới
đang dần dần hướng tới lí tính hóa rõ ràng, điều này có nghĩa là lương tính
hóa, sinh thái hóa, xin hình hóa, cảnh giới hóa của sự phát triển văn hóa, tức
là từ bỏ hứng thú dung tục, hướng đến theo đuổi cá thể tinh thần độc lập đối
thoại với tâm linh mình, nhìn lại chỗ độc đáo của tâm linh cá thể. Con người
luôn cô độc, trong sự cô độc con người có thể thoát khỏi sự nặng nề của nhục thể
hóa và sự quấy nhiễu của thế giới bên ngoài, trở về với sự vui vẻ an nhàn của
trái tim và tâm tính bản nguyên. Nên cố gắng làm rõ ý nghĩa của sinh tồn cá thể
trong đời sống hàng ngày, làm rõ tính tinh thần tồn tại của con người trong thế
giới vật chất, đem lại không gian phản tư và hồi quy cho sự sinh tồn của nhân
loại.
Tôi kiên tâm cho rằng, sự thiếu vắng của
tư tưởng phương đông, kinh nghiệm phương đông là sự khuyết thiếu của nhân loại,
tính hài hòa của kinh nghiệm phương đông, tính bao dung của diễn ngôn phương đông có thể điều chỉnh chủ nghĩa đơn phương và chủ nghĩa tiêu dùng mang
tính hiện đại phương tây, bình đẳng truyền bá trên toàn thế giới kinh nghiệm có
ích của mình và tạo phúc cho nhân loại. Phương Đông đặc biệt là tinh hoa tư tưởng
trong ăn hóa Trung Quốc như tư tưởng hài hòa xanh (lục sắc), tư tưởng biện chứng,
tư tưởng mơ hồ tổng hợp, tư tưởng coi trọng tính bản nguyên và tính khác biệt,
nhấn mạnh “nhân giả ái nhân”…, những tư tưởng này là sự nuôi dưỡng hoặc bổ sung
đối với phương tây. Hoàn toàn khác với kinh tế học nhấn mạnh sự chinh phục của
con người đối với tự nhiên và sự theo đuổi với mức độ lớn nhất giá trị thặng
dư, trong thời kì “hậu Đông phương chủ nghĩa”, có mĩ học sinh thái của tư tưởng
phương Đông và văn hóa sinh thái đang hóa giải xung đột giữa người với người
khác, người và bản thân, người và tự nhiên. Từ đó, chúng ta không khó lí giải
vì sao cuối đời Heideger phải quan tâm đến tư tưởng Trung Quốc trong “Đạo đức
kinh” của Lão Tử? Vì sao Roland Barthes muốn thoải mái bàn luận thơ Haiku, thư
pháp của Nhật Bản và vấn đề hư vị của thiên hoàng ở trung tâm
Tokio? Vì sao Dedira muốn đến Trung Quốc đại đàm vấn đề “phẫn nộ” và hiện tượng
văn hóa Trung Quốc? Vì sao Sayyid trên giường bệnh vẫn vô cùng chú ý đến Trung
Quốc phương đông ở nơi xa xôi. Là vì sao khiến họ có cảm hứng như vậy đối với
phương Đông? Ngoài việc sống dậy kinh tế phương Đông, đương nhiên là “tính khác
biệt” văn hóa. Văn hóa khác biệt khiến cho những nhà tư tưởng hàng đầu của
phương Tây bắt đầu chú ý hoàn toàn mới đối với phương Đông. Nếu như chúng ta
cái gì cũng “mang về dùng” mà không “xuất ra”, văn hóa đông tây sẽ xuất hiện vấn
đề mất cân bằng sinh thái văn hóa. Có thể cho rằng, phương tây đang hấp thu tinh thần
văn hóa phương Đông và theo đuổi chỉnh hợp mới văn hóa nhân loại. Nói cách
khác, giới tri thức phương tây thế kỉ mới sẽ chuyển hướng chú ý đến phương
đông, mang đến dũng khí để bình giá lại tất cả giá trị và lại tìm kiếm sự kết hợp văn hóa giá trị mới của văn hóa tương lai nhân loại, cho mô hình tư duy
chủ nghĩa trung xin phương tây và mô hình nhận thức khoa học xã hội, và giới
tri thức phương đông bị chủ nghĩa trung tâm phương tây đẩy ra bên lề.
III.
PHÁT
SINH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LÍ LUẬN SINH THÁI
Đối diện với nguy cơ sinh thái tự nhiên và
sinh thái tinh thần, văn hóa sinh thái đã ra đời. Sự ra đời với tư cách là lí
luận văn hóa sinh thái của lịch sử học thuật vào thời điểm nào? Giới học thuật
vẫn chưa xác định rõ ràng.
Từ “Sinh thái học” được phái sinh từ từ
oicos (phòng, nơi ở) trong tiếng Hi lạp, từ sớm đã xuất hiện trong tiếng Đức, tức
là die Okologie, tiếng Anh là the ecology. Chủ nghĩa sinh thái không phải xuất
hiện từ con số khong. Tư tưởng của nó có quan hệ mật thiết với phong trào chủ
nghĩa lãng mạn thế kỉ 18. Năm 1858 cuốn sách “Walden” của nhà văn Thoreau người
Mĩ đã thể hiện quan niệm của mình về sự hài hòa giữa con người và tự nhiên. Ông
từ góc độ cân bằng sinh thái phản đối thành thị ồn ào, tán dương thế giới tự
nhiên của rừng suối.
Năm 1886 nhà động vật học người Đức E.Haeckel
trong cuốn “Sinh vật thể phổ thông hình thái học”, xây dựng cây hệ thống về sự
thay đổi quan hệ giữa động thực vật, cho rằng tinh thần và vật chất nên hài hòa
thống nhất: “Chúng ta lí giải sinh thái học thành toàn bộ khoa học liên quan đến
thể hữu cơ và hoàn cảnh xung quan, tiến thêm một bước nữa có thể xếp toàn bộ điều
kiện sinh tồn vào trong đó để nghiên cứu. Sinh thái học xuất hiện với tư cách
là khoa học nghiên cứu quan hệ giữa sinh vật và môi trường của nó. Cùng với sự
phát triển của ngành khoa học này, sinh thái học hiện đại dần dần đặt con người
vào vị trí trung tâm của sự nghiên cứu, quan hệ giữa con người và tự nhiên trở
thành hạt nhân chú ý của sinh thái học”. Cách nói này có lẽ là nguộn nguồn của
lí luận sinh thái.
Thường cho rằng, năm 1970 “chủ nghĩa sinh
thái” (ecologism) phát triển ở phương tây đã bắt đầu lịch trình gian nan của
văn háo sinh thái. Văn hóa sinh thái và phê bình sinhthais xuất hiện, chính là
bắt đầu trong bối cảnh lớn như vậy. “Phê bình sinh thái”(ecocriticism) xuất hiện
muộn hơn so với các lí luận khác ở phương tây, một khi đã xuất hiện liền nhanh
chóng thu hút được hứng thú lí luận của mọi người, và không ngừng tăng cường tiến
trình thế giới hóa của lí luận này. Simon C. Estok cho rằng, sự ra đời của phê
bình sinh thái vì góc độ khác nhau cho nên có ba thời kì khác nhau: phê bình
sinh thái với tư cách là thuật ngữ văn hóa được đề xuất trong bài viết “văn học
và sinh thái học: thực nghiệm của phê bình sinh thái” phát biểu năm 1978 của
William Ruekert, nhưng không được mọi người chú ý; sau 13 năm, năm 1993, Murphy
sáng lập tạp chí “Văn học và nghiên cứu khoa học liên ngành về môi trường”,
dùng quyền lực diễn ngôn có trọng lượng lớn của nó thể hiện lại tính quan trọng
của phê bình sinh thái, thu hút được sự chú ý và hưởng ứng trên phạm vi rộng,
đánh dấu sự hình thành dần dần của trường phái phê bình sinh thái, nhưng vẫn
chưa xuất bản lí luận chính thức và cương lĩnh của học phái; năm 1996 sự xuất bản
của cuốn “Văn bản phê bình sinh thái: cột mốc trong sinh thái học văn học” Cheryll Glotfelty và “Tưởng tượng của môi trường”
của Lawrence Buell, phê bình sinh thái cuối cùng đã có cương lĩnh lí luận và
nguyên tắc mĩ học của mình, và thu hút được sự quan tâm và nghiên cứu sâu sắc của
giới học thuật, và không ngừng hình thành khung hệ thống hoàn thiện trong quá
trình tranh luận.
Có thể nói, từ những năm 60 của thế kỉ 20,
các lĩnh vực nghiên cứu mọc lên như nấm, như triết học sinh thái (ecophilosophy),
thần học sinh thái (Eco-theology), chính trị học sinh thái (ecological
politics), kinh thế học sinh thái (ecological economics), chủ nghĩa nhân văn
sinh thái (ecological humanism), chủ nghĩa nữ quyền sinh thái (ecofeminism),
văn học sinh thái (ecoliterature), nghệ thuật sinh thái (ecological art), xã hội
học sinh thái (ecosociology), luân lí học sinh thái (ecological), nhân loại học
sinh thái (ecological anthropology), tâm lí học sinh thái (ecological
psychology), phê bình sinh thái (ecocriticism), sinh thái học bề sâu (deep
ecology)…, mọi người lại phát hiện ra một góc độ nghiên cứu mới trong “thời kì
vũ đài cao nguyên” của lí luận phương tây – xóa bỏ chủ nghĩa nhân loại trung
tâm, kiên trì chủ nghĩa trung tâm tự nhiên, coi sự chung sống hài hòa giữa con
người và tự nhiên là nguyên tắc cơ bản của lí luận sinh thái, phê bình sinh
thái loại bỏ sự mù quáng của Chauvinism. So với trước kia, “sinh thái” thể hiện
tính khuynh hướng giá trị và ý vị thực tiễn rất rõ ràng, tinh thần nhân văn bao
hàm trong từ “sinh thái” có hàm nghĩa sâu sắc hơn. Triết học sinh thái tìm ra
căn nguyên của nguy cơ sinh thái tự nhiên nằm trong chủ nghĩa nhân loại trung
tâm , trong mô thức tư duy đối lập nhị nguyên của văn minh hiện đại. làm cho tư
duy sinh thái và phương pháp sinh thái do nghiên cứu khoa học tự nhiên cung cấp
thẩm thấu vào trong thế giwois quan và thể nghiệm sinh tồn của con người, cố gắng
đem tinh thần sinh thái bồi dưỡng thành một phương thức tư duy, tín ngưỡng tinh
thần và quan niệm văn hóa hướng tới tiền cảnh văn minh hoàn toàn mới. Tóm lại,
phong trào văn hóa sinh thái ngày nay đã trở thành phong trào văn hóa kết hợp
giữa thành quả nghiên cứu của khoa học tự nhiên và những suy tư của khoa học
nhân văn, giữa nghiên cứu lsí luận văn hành động thực tiễn, phản tư phê phán
văn minh hiện đại và tư duy mang tính xây dựng một nền văn minh mới hoàn thiện
lành mạnh hơn.
Khác
với tính tư biện lí luận siêu hình rõ nét của lí luận phương tây khác, lí luận
sinh thái là một loại lí luận thực tiễn về hoàn cảnh hiện thực của nhân loại.
Các nhà phê bình sinh thái đều phản đối quan điểm chủ nghĩa văn bản trung tâm
“ngoài văn bản ra không có gì khác nữa” trong “văn tự học” của Derida, họ kiên
trì cho rằng: sự tồn tại của ngôn ngữ hoặc văn bản chỉ là biểu trưng văn hóa của
thế giới thực thể, khong thể nói rõ sự nặng nhẹ của thế giới vật chất, những thứ
quan trọng ngoài văn bản nhiều không đếm xuể, làm sao lại nói là không có gì?
Bethe cho rằng: “Chủ nghĩa hậu hiện đại tuyên bố tất cả hạn độ đều là hạn độ
(thước đo) văn bản, thi học sinh thái lại chủ trương chúng ta phải nắm chắc một
khả năng, đó là mỗi hạn độ văn bản được gọi là thơ ca có thể khiến chúng ta hồi
ức lại tri thức lâu đời nhất của nhân loại: không có hạn độ lớn, chúng ta sẽ
không thể tồn tại”. Lí luận sinh thái phản đối cạm bẫy của “chủ nghĩa duy tâm
ngôn ngữ” hoặc cạm bẫy của “chủ nghĩa văn hóa” mà lí luận đương đại rơi vào
không thể tự thoát ra, ra sức phơi bày nguy cơ hiện thực và khó khăn trước mắt
mà nhân loại đang đối mặt, thoát khỏi lao tù tự mình vẽ ra của “cái lồng ngôn
ngữ”, vượt qua ảo tưởng tự tạo của văn bản ngôn ngữ, quan tâm đến khó khăn của
thời đại. Sự hủ bại và tham lam của xã hội hiện đại là do nhân tính dị hóa của
vật chất trung tâm hóa và tinh thần biên duyên hóa tạo thành, sự hủ bại có nguồn
gốc trong tham vọng chủ nghĩa vật chất phủ lên toàn bộ thế giới, con người khuyết
thiếu vĩ độ siêu việt tinh thần và nằm trong lo lắng phiền muộn khó giải quyết
của việc thực hiện dục vọng, hàng loạt những căn bệnh của văn minh hiện đại đã
dẫn đến sự mất cân bằng trong toàn bộ tinh thần của nhân loại. Nói tóm lại, gần
400 năm người phương tây đã đi trên con đường lệch lạc văn hóa, chỉ quan tâm đến
phát triển kinh tế và trình độ tiêu dùng, sự lệch lạc văn hóa nghiêm trọng này
làm cho con người chìm đắm trong tăng trưởng vật chất mà mất đi độ sâu nhân
tính và độ dày nhân văn. Đương nhiên, những phê bình sắc nhọn này đã từng xuất
hiện trong phê phán văn hóa của chủ nghĩa Mác phương tây.
Văn học sinh thái là một bộ phận cấu thành
quan trọng của văn hóa sinh thái. Văn hóa sinh thái bị biên duyên hóa trong tầng
diện hình thái chế độ của nó, như vấn đề môi trường rất muộn mới thâm nhập vào
phương diện suy xét chính trị và chế độ bảo vệ môi trường…, chú trọng bảo hộ sự
chuyên biến hình thức của sản xuất vật chất, chuyển biến hình thức năng lượng,
và trường cảnh sinh thái của chuyển biến phương thức sống của nhân loại, ra sức
không làm cho nó trở nên xấu đi; văn hóa sinh thái ở tầng diện hình thái tinh
thần, cố gắng thúc đẩy phát triển các lĩnh vực giáo dục môi trường, sinh thái
hóa phát triển khoa học kĩ thuật, triết học sinh thái, thần học sinh thái, văn
học sinh thái, nghệ thuật sinh thái…
Từ khi có văn tự ghi chép, văn minh nhân
loại đã có hàng nghìn năm lịch sử, nhưng tổng số con người trên trái đất từ ban
dầu 2000 vạn đã phát triển đến 6 tỉ, và những người đã mất đi lên tới hơn chục
tỉ, những loài khác cùng tồn tại với con người phần lớn đã bị hủy diệt, một bộ
phận đang nhanh chóng bị tuyệt chủng. Đối diện với thảm họa có tính thế giới
này, những nhà tư tưởng của nhân loại vào cuối thế kỉ 20 đã phá bỏ thế giới
quan chủ nghĩa nhân loại trung tâm trong truyền thống phương tây, trong việc đề
cao văn hóa sinh thái đã cố gắng thức tỉnh ý thức sinh thái có tính toàn cầu.
Có thể nói, văn hóa sinh thái chú trọng sự hài hòa giữa con người và tự nhiên,
đề xướng chủ nghĩa tự nhiên làm trung tâm, phản đối chủ nghĩa nhân loại trung
tâm, đặc trưng văn học của nó nằm ở dùng tư tưởng sinh thái và góc độ sinh thái
làm xuất phát điểm, đem văn học lấy tự nhiên làm gốc và văn học lấy con người
làm gốc xếp ngang hàng nhau. Giáo sư đại học Havard Buyiell cho rằng: văn học
sinh thái là văn học được viết “vì thế giới đang trong nguy cơ”. Văn học sinh
thái ở một ý nghĩa nào đó là bật đèn đỏ phòng ngừa tai nạn sinh thái của nhân
loại, là sự thể hiện các nhà văn thời đại toàn cầu hóa quan tâm đến sự nghiêm
trọng của vận mệnh toàn cầu, và sự lo lắng vô hạn trong sáng tác, cũng là sự tự
phản tỉnh giá trị sinh thái nhân loại trong nguy cơ thế giới đang phải đối mặt.
Thực
ra, trong “Ông già và biển cả” của Hemingway, biểu hiện nhân loại trung tâm chủ
nghĩa vô cùng rõ ràng: sự đối lập giữa “người” và “tgwj nhiên” là động cơ và
tuyến cơ bản của câu chuyện, mấu chốt của tầng thứ này cho thấy sát hại và đấu
tranh là quy luật căn bản của vũ trụ. Trong nước biển, con sứa bị rùa biển ăn,
mà sứa cũng có thể phun chất độc bắt chiến lợi phẩm của mình; trên mặt biển,
ông lão bắt, nhưng cá mập cũng có thể biến ông lão thành chiến lợi phẩm, ông
lão dùng hết sức để chiến đấu: “…”. Hemingway thông qua đối lập giữa người và
không phải người, chỉ ra quan hệ giữa hiện tực và tự nhiên, con người và con vật
là quan hệ tàn sát lẫn nhau, không có người mạnh, cũng không có cái gọi là mục
đích. Nhưng đến cuối cùng, con cá mà ông lão dùng cả sinh mệnh để đổi lấy, biến
thành một bộ xương trắng, trở thành rác trôi lềnh phềnh, điều này đã tuyên bố sự
thất bại của ông lão. Bất luận con người đã bỏ ra sự nỗ lực kinh thiên động địa
thế nào, trong quy luật của vũ trụ vẫn vô cùng bé nhỏ và không đáng nhắc đến,
hơn nữa, trong làn sóng thủy triều (ẩn dụ thời gian), tất cả đều mất hết dấu vết.
Hemingway một lần nữa làm rõ, “tinh thần mĩ” cuối cùng của chủ nghĩa nhân loại
trung tâm – con người chân chính là không thể bị hủy diệt, cho dù hành động của
anh ta đã thất bại, nhưng về tinh thần vẫn bảo giữ được sự hoàn chỉnh nhân
cách, vẫn vĩnh viễn không thất bại. Con người sở dĩ có được sự thắng loại sau
khi bị phá hủy theo kiểu Kant, mấu chốt nằm ở thái độ của con người đối diện với
hiện thực sau khi thất bại. Lực lượng bên ngoài chỉ có thể hủy diệt được thân
xác con người chứ không thể hủy diệt tinh thần con người. Điều này thể hiện
phong độ ưu nhã dưới áp lực lớn kiểu Hemingway, bảo giữ giá trị chân chính và sự
tôn nghiêm của con người. nhưng, “tinh thần Mĩ” và tôn nghiêm cá thể của chủ
nghĩa nhân loại trung tâm này, trong thời đại văn hóa sinh thái đã gặp phải sự
hoài nghi của các nhà lí luận sinh thái. Có thể nói, “tinh thần Mĩ” này hàm chứa
một diễn ngôn tiềm tại – Nhân loại là chủ của vạn vật, có thể chinh phục cải tạo
vận vật trong vũ trụ. Mặc dù, đối diện với sự phá hoại ghê gớm môi trường đại tự
nhiên, và tự nhiên báo thù gấp bội, con người đã cẩm thấy áp lực sinh thái và
lo lắng sinh thái to lớn. Con người nhìn thấy cái gọi là sự “tiến bộ” toàn cầu
mang tính hiện thực, điều nó mang đến là những khổ nạn vô tận của con người và
tinh cầu không biết khinh trọng, vì thế, chủ nghĩa anh hùng chinh phục tự nhiên
và tàn sát đang dần dần nhường chỗ cho sự hài hòa giữa con người và tự nhiên.
Nhưng không phải tất cả tác phẩm viết về tự
nhiêu đều có thể trở thành văn học sinh thái. Có người cho rằng, giải quyết văn
học quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên, can thiệp đến nghiên cứu quan
hệ tương hỗ giữa con người và hoàn cảnh vật lí, hoàn cảnh sinh thái, hoàn cảnh
xã hội, xã hội loài người lợi dụng tài nguyên tự nhiên, vai trò của hoạt động của
nhân loại đối với thế giới tự nhiên,, vai trò của môi trường đối với con người
và xã hội loài người.
Theo tôi, cái gọi là văn học sinh thái chủ
yếu là chỉ những tác phẩm mẫn cảm góp phần phơi bày nguy cơ sinh thái thế giới
hiện đại, phê phán quan điểm giá trị chủ nghĩa nhân loại trung tâm, phản tỉnh đối
với nền văn minh hiện đại dẫn đến nguy cơ sinh thái. Văn học sinh thái không
coi con người là trung tâm của thế giới tự nhiên, cũng phản đối coi lợi ích của
con người là thước đo tuyệt đối phán đoán giá trị tự nhiên. Từ trong hậu quả của
hết tai họa sinh thái này đến tai họa sinh thái khác, và cảnh báo nguy cơ sinh
thái nhiều không kể hết nhận ra rằng, chỉ có coi lợi ích chỉnh thể của hệ thống
sinh thái toàn cầu bao gồm tự nhiên và tinh thần là tiền đề cơ bản nhất và giá
trị cao nhất của tương lai nhân loại, nhân loại mới có thể hóa giải một cách
toàn diện nguy cơ sinh thái đang uy hiếp sự sinh tồn của toàn nhân loại, từ đó
mới có thể điều chỉnh lại có lợi cho lợi ích lâu dài của nhân loại và trái đất
sinh tồn hài hòa những lợi ích căn bản.
Trong lĩnh vực văn học sinh thái, có tác
phẩm văn học sinh thái theo nghĩa rộng, tức là những tác phẩm văn học truyền
thóng có ý thức văn hóa sinh thái, như tiểu thuyết “Walden” của Henry David
Thoreau, “Tự khúc’ của William Wordsworth…Những tác phẩm này không trực tiếp nhắc
đến từ khóa “sinh thái”, thậm chí cũng không đem hậu quả của nguy cơ sinh thái
đẩy lên mức độ khiến người ta kinh sợ, nhưng trong tác phẩm không thiếu ý thức
về sự hài hòa sinh mệnh giao hòa giữa con người và tự nhiên, không thiếu sự phê
phán sâu sắc văn minh hiện đại đối lập, làm xa rời con người và tự nhiên; tác
phẩm văn học sinh thái theo nghĩa hẹp là chỉ tác phẩm trong đó nhà văn có lập
trường văn hóa sinh thái rõ ràng, tiên phong phản tư quan hệ giữa con người và
tự nhiên, trực diện trực diện nguy cơ sinh thái hiện đại và phát đi thông điệp
phê phán của mình, như “Bên bờ biển”, “Xuân cô đơn”của Carson , tác phẩm “Tầu
trắng” của nhà văn Xô viết Aitmatov,tác phẩm “Bạn của trái đất” của nhà tiểu
thuyết Mĩ Boyle, tác phẩm “Tự nhiên trong đô thị” và “Sự mê hoặc của rừng sâu”…
của nữ văn sĩ Nhật Bản Kato….
Trong cái nhìn của văn học sinh thái, con
người không chỉ tách rời tự nhiên, con người cũng tách tự ngã và xã hội – ngày
nay, nhục thể trầm trọng nhưng linh hồn lại khinh phiêu, dường như chỉ có nhục
thể đã an định rồi, thì linh hồn tiêu biến (trôi mất) cũng không quan tâm.
Chúng ta có thể có được sự gợi ý từ vở kịch nổi tiếng “Thanh xuân cấp kị du hí”
của nữ nhà văn Nga Razumovskaya:Trong
đêm gió tuyết, bốn học sinh cấp ba sắp tốt nghiệp đến nhà cô giáo chúc mừng
sinh nhật cô. Chúng hát bài hát mừng sinh nhật và mang đến quà sinh nhật và lời
chúc phúc. Sau đó khi mấy học sinh đã nói rõ mục đích thực sự của chúng – vì
thành tích thi quá kém, cho nên muốn lấy chìa khóa két bảo hiểm từ tay cô giáo
để thay bài thi. Cô giáo choáng váng từ chối, hiểu ra ràng giáo dục mà mình tín
ngưỡng đã hoàn toàn thất bại, bọn trẻ có thể bỏ mặt nạ bất chấp thủ đoạn để đạt
được mục đích. Để triệt để đả kích cô giáo trên phương diện tinh thần, các học
trò bắt đầu biểu diễn những thứ xấu xa: uống rượu, đập đồ, châm biếm chân lí và
lương tâm, châm biếm hoàn cảnh của cô giáo, học sinh nam cuối cùng còn đứng trước
mặt cô giáo biểu diễn cảnh cưỡng hiếp nữ sinh. Giới hạn cuối cùng của sợi dây phòng vệ tinh
thần đứt bung, cô ý thức được toàn bộ nền giáo dục Nga thực chất đã đào tạo ra
một lớp tiểu thị dân tự tư tự lợi, trong cuộc đấu này cái duy nhất mà cô có thể
dựa vào là lương tâm tối thiểu của con người, nhưng nó quá mỏng manh. Để ngăn
chặn cưỡng hiếp nữ sinh, cô đưa chìa khóa tự giam mình trong phòng ngủ. Sự bi
thương tuyệt vọng của cô giáo làm cho ba đứa trẻ khác bất giác tỉnh ngộ, chúng
treo chìa khóa ở cửa phòng ngủ của cô giáo. Trời sáng, chúng phát hiện cô giáo
đã treo cổ tự sát trong phòng ngủ. Bi kịch này làm mọi người kinh hoàng! Có thể
nói, sự thất bại của giáo dục hiện đại, sự không có chỗ dựa của tinh thần, cảm
giác trôi nổi của giá trị và chủ nghĩa coi trọng tiền bạc, là vì tính hiện đại khi
nhấn mạnh tiền bạc, tốc độ và thời gian, đã từ bỏ trái đất thơ ý mà nhân loại sống
dựa vào và nơi cứu rỗi tinh thần. Làm thế nào để quay trở về lí tính mới trùng
cấu tinh thần, trở về trái đất khởi đầu của sinh mệnh, tiến vào thế giới ý
nghĩa tìm kiếm tính khả năng mà bản nguyên dựa vào, trở thành sứ mệnh và lịch
trình tâm lộ tất yếu của nghiên cứu mĩ học sinh thái.
Điểm xuất phát của văn học sinh thái là
nhu cầu tâm linh của nhân loại, trong đó điều mà vĩ độ trung tâm muốn nắm vững
là quan hệ sinh thành tương hõ giữa con người và tự nhiên, xem xét tự nhiên ảnh
hưởng như thế nào đến sự sinh tồn và tâm hồn con người. Riêng đối với sáng tác
văn học sinh thái, chú trọng suy nghĩ sâu sắc của triết học sinh thái, làm sâu
thểm thể nghiệm thẩm mĩ của văn hóa sinh thái, thu được phán đoán giá trị sinh
thái chính xác, tìm kiếm phowng thức cảm tri mới của cảm giác “gia viên” trong
thế giới; đối với sự cấu thành tác phẩm của văn học sinh thái, chú trọng chủ
nghĩa tự nhiên trung tâm và sự hài hòa giữa con người và tự nhiên trong văn bản,
thông qua tự sự văn bản làm mạnh thêm sự tu dưỡng của con người đối với tự
nhiên, dưới sự dẫn dắt của văn bản tự sự, tìm kiếm tính khả năng có thể thoát
khỏi nguy cơ sinh thái toàn cầu, trong sự phản tư giá trị của văn bản thu được
sự tái tạo tâm linh của văn học sinh thái đối với con người; đối với việc đọc
văn học sinh thái, nhấn mạnh thông qua đọc hiểu nâng cao thế giới quan tinh thần
bên trong của tồn tại trong mẫu thể tự nhiên, đối với sự xấu đi của tự nhiên và
khó khăn của trái đất có cảm giác nguy cơ như chính mình trải qua, thu được tư
duy sinh thái và cảm giác gia viên chính
đáng, đồng thời kích thích thiên tính yêu sinh mệnh, hồi phục quan hệ hài hòa bên
trong trong quan hệ giữa thế giới tinh thần và tự nhiên. “Chúng ta khi đọc tác
phẩm văn học, đối với cơ thể phức tạp điều tiết vai trò tương hỗ giữa con người
và môi trường được thể hiện trong văn bản có thể có lí giải mới. Nghiên cứu văn
học có ý thức môi trường mang đến cơ hội sâu rộng hơn, mang theo sự mẫn cảm mới
đối với tiếng nói tự nhiên để đọc tác phẩm văn học. Mấu chốt của sáng tạo và đọc
văn học sinh thái là điều tiết lại mô hình tư duy trung tâm kiêu cạo của con
người, từ đó không ngừng bước vào thế giới quan sinh thái trung tâm, từ đó có
được cảm tri thẩm mĩ chính xác đối với khái niệm chỉnh thế toàn cầu đối với
hình thức sinh mệnh và môi trường vật lí phi nhân loại.
Tính đặc thù của văn học sinh thái nằm ở
chỗ nó bước ra trong tuần hoàn ác tính đối kháng – chinh phục – báo thù của con
người và tự nhiên, biểu hiện trong hình thức văn học nhu cầu sắp xếp lại vị trí
giữa con người và tự nhiên. Không ít tác phẩm văn học đã dự đoán tương lai khổ
nạn của loài người và tính khả năng trong việc thoát khỏi khó khăn, trong cảnh
báo văn hóa sinh thái thể hiện “viễn cảnh” con người và tự nhiên hòa làm một,
ra sức quay về với tự nhiên để thoát khỏi khổ nạn sinh thái và hủy diệt nhân loại
trong tương lai. Vì thế, văn học sinh thái không phải là sự miêu tả thông tường
cảm giác thanh thản của con người và tự nhiên trong phong cảnh tự nhiên, mà là
từ trong văn bản văn học làm lộ ra khó khăn lớn của nhân loại mà trước đây chưa
bao giờ làm, và tăng thêm giải đáp thẩm mĩ đối với khó khăn của toàn bộ tương
lai nhân loại, từ đó vượt lên sự xem xét về vấn đề cụ thể mà trực tiếp thâm nhập
vào quan tâm đến tầng sâu của trí tuệ, kích phát tình cảm bên trong của quan hệ
giữa con người và thế giới tự nhiên phi nhân loại, tìm kiếm con đường mới để
con người và tự nhiên quay trở lại thế giới hài hòa tốt đẹp, tìm kiếm luân lí mới
tự nhiên nhân loại bình đẳng trong sự phát triển của con người và tự nhiên.
SỰ
PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHÊ BÌNH SINH THÁI
Phê bình sinh thái là một thể diễn ngôn mỗi
người nói một kiểu. Phần lớn mọi người thừa nhận định nghĩa của Cheryll
Glotfelty: “Phê bình sinh thái là phê bình bàn luận về quan hệ giữa văn học và
môi trường tự nhiên”. Các nhà phê bình sinh thái chú ý đến sự phá hoại sinh
thái do hiện đại hóa tạo thành và sự xấu đi của sinh thái toàn cầu do hiệu ứng
nhà kính tạo nên, múc độ nghiêm trọng của tình trạng này đã uy hiếp môi trường
sinh thồn và phát triển tương lai của nhân loại. Thế là nhấn mạnh một phương diện
từ góc độ văn hóa sinh thái, văn học sinh thái để nghiên cứu văn học, mặt khác
từ góc độ kinh nghiệm thẩm mĩ văn học giải thích sâu sắc thêm khắc chế sự xấu
đi của sinh thái đạt đến sự cân bằng sinh thái đảm bảo sự phát triển của nhân
loại, đã trở thành sứ mệnh lịch sử mà các nhà tư tưởng văn học và sáng tác văn
học phải đảm nhiệm trong thời đại toàn cầu hóa.
Thông thường cho rằng, khái niệm “phê bình
sinh thái” do học giả người Mĩ William Rueckert lần đầu tiên đề xuất vào năm
1978, bài viết “Văn học và sinh t hái học:Một phác thảo thử nghiệm phê bình
sinh thái” (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism) của ông đăng
trên số mùa đông tạp chí “Bình luận Iowa”, dùng khái niệm “phê bình sinh thái”
“kết hợp văn học và sinh thái học” một cách minh xác. Năm 1992, “hội nghiên cứu
văn học và môi trường” được thành lập ở đại học Nevada Mĩ.
Năm 1994, Kroeber xuất bản cuốn chuyên luận “Phê bình văn học sinh thái: tưởng tượng lãng mạn và sinh thái
học tinh thần”,
đề xướng “Phê bình văn học của sinh thái học” (ecological literary criticism)
hoặc “Phê bình có khuynh hướng sinh thái học” (ecological oriented criticism).
Năm 1995 tại đại học Colorado tổ chức hội thảo đầu tiên, một bộ phận báo cáo
trong hội nghị xuất bản với tiêu đề “Đọc trái đất: khuynh hướng mới của nghiên
cứu văn học và môi trường” (1998). Sau đó, các trước tác phê bình sinh thái xuất
hiện như nấm.(1)
Năm 1996, tập bài viết về phê bình
sinh thái lần đầu tiên được xuất bản tại Mĩ mang tên “Văn bản phê bình sinh
thái” do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên, tôn chỉ của nó là là “lần lượt thảo
luận lí luận sinh thái học và văn học sinh thái, phê bình sinh thái văn học và
phê bình văn học sinh thái”, làm cho phê bình sinh thái càng có đặc trưng và phạm
thức của phê bình văn học. Trong lời giới thiệu, Cheryll Glotfelty định nghĩa
thêm về phê bình sinh thái: “Phê bình sinh thái nghiên cứu quan hệ giữa văn học
và môi trường vật lí. Giống như phê bình chủ nghĩa nữ quyền từ góc độ ý thức giới
tính khảo sát ngôn ngữ và văn học, phê bình chủ nghĩa Mac đem phương thức sản
xuất và giai cấp kinh tế vào đọc văn bản, phê bình sinh thái vận dụng phương
pháp lấy địa cầu làm trung tâm nghiên cứu văn học”.
Mùa hè năm 1999, “Tân văn học sử” là
chuyên san về phê bình sinh thái, tổng cộng đăng 10 bài chuyên về phê bình sinh
thái, năm 2000 những chuyên luận về phê bình sinh thái chủ yếu có tuyển tập
“Lĩnh vực rộng lớn của nghiên cứu văn học theo khuynh hướng tự nhiên” do giáo
sư Murphy chủ biên, “Tuyển tập mới về phê bình sinh thái” do Tallmadge chủ
biên, “Bài ca của trái đất” của Bethe. Năm 2001, Lawrence Buell xuất bản cuốn “Viết
vì thế giới đang lâm nguy: văn học , văn hóa, môi trường nước Mĩ và các quốc
gia khác.”, Maizel chủ biên cuốn “Thế kỉ của phê bình sinh thái”. Đầu năm 2002,
Nxb Đại học Virginia long trọng giới thiệu bộ sách phê bình sinh thái: “Bộ sách
tìm tòi phê bình sinh thái”. Lofgren người Mĩ cuối năm 2003 đã xuất bản cuốn
“Phê bình sinh thái thực dụng”, Garrard người Anh tháng 8 năm 2004 cho xuất bản
cuốn “Phê bình sinh thái”.
Định nghĩa “Phê bình sinh thái” có rất
nhiều, mỗi người một kiểu nên rất khó định luận. Trong “Đọc trái đất”, Branch nói:
“Phê bình sinh thái không chỉ là một cách thức phân tích tự nhiên trong văn học,
nó còn là hướng tới thế giới quan sinh vật trung tâm hơn, hướng tới một sự mở rộng
luân lí học, mở rộng quan niệm có tính nhân loại về thể chung toàn cầu mở rộng
đến có thể dung nạp phương thức sống và hoàn cảnh vật lí. Giống như chủ nghĩa nữ
quyền và phê bình văn học Mĩ kêu gọi biến
hóa văn hóa, tức là giống như thông qua làm rõ tính hạn hẹp của quan điểm thời
kì đầu, nỗ lực thúc đẩy hình thành thế giới quan bao dung hơn, phê bình sinh
thái thông qua khảo sát tính hạn hẹn của giả định văn hóa liên quan đến thế giới
tự nhiên đã hạn định như thế nào đối với năng lực phương diện sinh thái có thể
đảm bảo xã hội loài người phát triển, hô hào cải biến văn hóa”.
Lawrence Buell giáo sư khoa Văn học
Anh đại học Havard trong cuốn: “Tưởng tượng môi trường: Thoreau, viết về tự
nhiên và cấu thành của văn hóa Mĩ” đã đem tinhthaafn sinh thái xuyên thấm vào
trong tầng sâu sơn của lí luận văn học và văn học. Trong chuyên luận được coi
là “Cột mốc của phê bình văn học sinh thái”, Buell chỉ ra một khuynh hướng chủ
yếu trong văn học và phê bình từ thế kỉ 20: “sự tiêu biến của vĩ độ hệ thống đối
với thế giới chân thực”. Buell cho rằng: phê bình sinh thái thông thường là sự
khai mở trong tinh thần thực tiễn của phong trào môi trường. Nói một cách khác,
các nhà phê bình sinh thái không chỉ coi mình là người theo đuổi hoạt động học
thuật. Họ quan tâm sâu sắc tới nguy cơ môi trường hiện nay, rất nhiều người còn
tham gia vào các hoạt động cải thiện môi trường, họ còn tin tưởng, khoa học xã
hội nhân văn, đặc biệt là nghiên cứu văn học và văn hóa có thể cống hiến cho việc
lí giải và cứu vớt nguy ngơ môi trường. Phê bình sinh thái là khoa học liên
ngành. Chủ nghĩa hình thức tuyên dương mĩ học hoặc tính tự túc trên phowng diện
khoa học thì không thể trở thành nhà phê bình sinh thái. Phê bình sinh thái thu
nạp mô hình giải thích từ nghiên cứu khoa học, địa lí nhân văn, tâm lí học phát
triển, xã hội nhân loại học, triết học (luân lí học, nhận thức luận, hiện tượng
học), sử học, tôn giáo, và giới tính, nghiên cứu chủng tộc. Kết quả của nó hiển
nhiên là giữa các nhà phê bình sinh thái khác nhau xuất hiện sự khác biệt lớn về
phương pháp luận. Cùng với sự lớn mạnh của phong trào sinh thái, “hàm nghĩa của
thuật ngữ “phê bình sinh thái” càng ngày càng phức tạp. Ban đầu được sử dụng nó
là những học giả văn học nghiên cứu văn viết về tự nhiên và thơ ca về tự nhiên,
những tác phẩm này chú ý đến thế giới phi nhân loại và quan hệ giữa nó và con
người. Tương ứng với nó là giả thiết lí luận của các nhà phê bình sinh thái
giai đoạn đầu cũng giản đơn hơn bây giờ rất nhiều. Ví dụ, rất nhiều nhà phê
bình sinh thái thời kì đầu cực lực phản đối lí luận có tính văn bản hiện đại,
và tuyên xưng nhiệm vụ hạt nhân của phê bình sinh thái là nhấn mạnh văn học nên
làm cho độc giả quay lại “tiếp xúc” với tự nhiên.
Nhìn chung có thể nói, “phê bình sinh
thái” là phương thức lí luận phê bình văn nghệ thâm nhập vào vấn đề sinh thái từ
tóc độ phê bình văn học. Một mặt muốn giải quyết vấn đề quan hệ tầng sâu giữa
văn học và môi trường tự nhiên, mặt khác muốn chú ý đến quan hệ bên trong giữa
văn học nghệ thuật và sinh thái xã hội , sinh thái văn hóa, sinh thái tinh thần.
Phê bình sinh thái quan tâm đến vấn đề văn bản làm thế nào cự tuyệt, triển thị,
hoặc kích phát thiên tính yêu sinh mệnh mãnh liệt của nhân loại: “khuynh hướng
nhân loại nội tại tập trung trong tiến trình sinh mệnh hoặc trong tiến trình
sinh mệnh tương tự, kích phát tưởng tượng và tình cảm về quan hệ giữa chúng ta
và thế giới tự nhiên phi nhân loại. Sau khi tôn giáo tín ngưỡng mang lại cảm
giác an toàn, những âu lo mang tính hiện đại, những vỡ vụn và hỗn loạn của thời
hậu hiện đại, các nhà văn bắt đầu tìm kiếm con đường mới để nhân loại quay về với
thế giới, tìm kiếm con đường mới của luân lí thận trọng mà cùng có lợi của sự
phát triển giữa chúng ta và tự nhiên. Vì thế, một động lực quan trọng của phê
bình sinh thái chính là định vị, mở rộng và thảo luận sự theo đuổi biểu hiện
trong hình thức văn học”(1). Phê bình sinh thái vận dụng quan điểm sinh thái học
hiện đại khảo sát quan hệ giữa văn học nghệ thuật và tự nhiên, xã hội và trạng
thái tinh thần con người, đồng thời vận dụng biện pháp tự sự như tưởng tượng
văn học thấu thị văn hóa sinh thái, tìm tòi trạng thái sinh tồn thi hóa của con
người trong thế giới, xem xét quan hệ giữa ba yếu tố: con người, tự nhiên, nghệ
thuật và phê bình – phản tư về quan hệ chinh phục và báo thù giữa con người và
tự nhiên, xác định nguyên tắc nhân văn đối với phê bình nghệ thuật sinh thái,
suy diễn đối với vấn đề trung tâm chủ thể hiện đại và cấu tạo mới của giá trị
đa nguyên. Chính ở điểm này, tôi đồng ý với điều mà người biên soạn cuốn “Đọc
trái đất” nói: “Một vai trò quan trọng của phê bình văn học mang tính mẫn cảm
sinh thái chính là ở nó có một loại tiềm năng, thúc đẩy toàn bộ các thành viên
nhân loại bồi dưỡng yếu tố sinh thái nhân văn sâu đậm hơn”. (2).
Theo tôi, phê bình sinh thái có một số
đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: phê bình sinh thái lấy vấn đề
sinh thái tự nhiên và sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học làm chủ, muốn
trong tác phẩm thể hiện động hướng phức tạp của con người và thế giới tự nhiên,
quan hệ tương tác giữa văn học và môi trường tự nhiên. Phê bình sinh thái trong
phê bình văn học tần suất sử dụng tăng lên và phạm vi sử dụng không ngừng mở rộng,
do đó phê bình sinh thái đã trở thành thuật ngữ quan trọng của lí luận văn học
đi vào từ điển thuật ngữ văn luận phương tây.
Thứ 2: phê bình văn học cũng có thể từ góc
độ văn hóa sinh thái đọc lại kinh điển văn học truyền thống, từ đó tìm ra ý
nghĩa văn hóa sinh thái và ý nghĩa mĩ học sinh thái từng bị che lấp, và xây dựng
lại mối quan hệ thẩm mĩ thi ý giữa con người và tự ngã, con người và người
khác, con người và xã hội, con người và tự nhiên, con người và trái đất.
Thứ 3: phê bình sinh thái đối với vấn đề
tính chủ thể của con người trong sáng tác nghệ thuật bảo giữ lập trường “chính
trị chính xác” – vừa không thể có lập trường chủ nghĩa nhân loại trung tâm, vừa
không thể là lập trường chủ nghĩa tự nhiên tuyệt đối, mà là chú trọng quan hệ
hài hòa giữa con người và tự nhiên, chủ trương nhân loại chuyển biến từ “ý thức
tự ngã” sang “ý thức sinh thái”. Con người và trái đất có quan hệ hòa hợp sinh
mệnh cùng tồn vong, nhân loại không thể là chú tể của muôn loài nữa, mà là một
thành viên trong muôn loài trên trái đất, cùng sinh tử với các thành viên khác
trong thế giới tự nhiên.
Thứ 4: phê bình sinh thái liên kết nghiên
cứu văn học và khoa học sinh mệnh, từ hai lĩnh vực nghiên cứu văn học và tự
nhiên, chú trọng từ góc độ phát triển xã hội loài người và biến đổi môi trường
sinh thái thâm nhập vào tầng diện văn học, từ đó làm cho phê bình sinh thái có
đặc tính liên ngành văn học. Phê bình sinh thái là phản tư văn học sau khi nhân
loại đối diện với tai họa sinh thái, là các nhà văn học nghệ thuật sự định vị lại vị trí của con người trên trái
đất, là sự tính toán lại những cực đoan mang tính hiện đại phương tây của các
nhà tư tưởng.
Thứ 5, phê bình sinh thái khi tiến
hành quan chiếu đối với hiện tượng văn hóa sinh thái, đã kế thừa hình thái ý thức
cách mạng xanh, nhấn mạnh không thể xa rời tinh thần văn học và diễn ngôn văn học,
cần phải cố hết sức có thể tại tầng diện hình thức văn bản văn học và thủ pháp
nghệ thuật triển khai tự sự diễn ngôn, thông qua thủ pháp cái đẹp hình thức của
sáng tác mang “tính văn học” để thể hiện ra tinh thần văn hóa sinh thái.
Thứ 6: Nội dung của phê bình sinh thái yêu
cầu trong tầm nhìn song trùng của bản chất sinh mệnh và địa cầu, khảo sát trạng
thái tồn tại quá khứ và tương lai của con người. Góc nhìn này liên kết nghiên cứu
văn học đã rơi vào chủ nghĩa hình thức và vấn đề sinh tồn với đầy những nguy cơ
của trái đất. Văn học từ đó có thể từ bỏ trò chơi văn tự của chủ nghĩa hình thức,
xốc lại tinh thần từ trong đủ các loại diễn ngôn phê bình hóa giải ngôn ngữ.
Tóm lại, phê bình sinh thái coi quan hệ
giữa văn học và môi trường tự nhiên là lĩnh vực nghiên cứu của mình, một mặt nó
buộc phải nghiên cứu “tính văn học”, mặc khác lại phải tiếp cận vấn đề “tính
sinh thái”. Sự chỉnh hợp giữa “tính văn học” và “tính sinh thái” khác với phê
bình văn học hoặc lí luận văn học khác. Phê bình sinh thái tràn dầy hi vọng đối
với tương lai nhân loliaj, và không ngừng hô hào thái độ sinh tồn lạc quan thi
ý, loại bỏ “sự tuyệt vọng về tương lai”, từ đó làm rõ đặc điểm tinh thần lạc
quan chủ nghĩa của phê bình sinh thái.
Tất nhiên, sự xuất hiện của bát kì lí
luận mới nào đều có những điểm không đầy đủ thậm chí mù mờ về lí luận, phê bình
sinh thái cũng không ngoại lệ. Mô hình phê bình mới này cùng với việc thu hút
được sự chú ý rộng rãi của giới nghiên cứu, cũng bị phê bình rộng rãi của xã hội.
Dana Phillip trong cuốn “Bản chất của sinh thái luận” đã nêu ra một số dị nghị
đối với phê bình sinh thái, cho rằng phê bình sinh thái là bình cũ rượu mới,
trên phương diện lí luận không có gì là mới mẻ, mà chỉ là dùng thuật ngữ thời
thượng lòe công chúng mà thôi; phê bình sinh thái vẫn không hình thành được hệ
thống lí luận của riêng mình, sự khuyết thiếu căn cứ lí luận của nó làm nó chẳng
qua chỉ trở thành diễn ngôn tự thuật kích động mà thôi; phê bình văn học sinh
thái đầy dã tâm, muốn đương nhiên đem thuyết tiến hóa tương đối phức tạp và lí
luận sinh thái vào trong phê bình văn học và rất khó tiêu hóa. Nhưng cho dù thế
nào đi nữa, phê bình sinh thái vẫn bước ra khỏi sự “thổi phồng văn bản”, “trò
chơi diễn ngôn” của văn luận phương Tây”, bắt đầu cuối xuống trái đất sinh dưỡng
tử táng, trực tiếp quan tâm đến môi trường chân thực sinh tồn của nhân loại, đây
là sự thực không thể phủ nhận.
Sự phát triển của lí luận văn hóa sinh
thái làm cho chúng ta khong chỉ chú ý đến quan hệ bề mặt giữa văn học và sinh
thái, mà còn chú ý đến vấn đề tầng sâu bị che lấp dưới tầng bề mặt(1), học giả
Đức Schweiter và học giả Mĩ Taylor đã đề xuất lí uận “tôn trọng sinh mệnh”, đem
phạm vi đạo đức của con người mở rộng từ động vật có năng lực cảm giác đến tất
cả vật có sinh mệnh. “Luân lí học trái đất” của học giả Mĩ Aldo leopold phạm vi của chủ thể đạo đức lại mở rộng từ vật
sinh mệnh cá thể đến hệ thống sinh thái, trái đất được xem là hệ thống chỉnh thể
không thể hủy bỏ của sự sinh tồn nhân loại. Ý thức chỉnh thể hệ thống này mang
đến cơ địa cho sự ra đời của sinh thái học bề sâu. (2). Tiếp đó “sinh thái học
bề sâu” ra đời.
1.
Sự
phát triển của sinh thái học chiều sâu
Khái niệm “Sinh thái học bề sâu” (Deep
ecology) do Arne Naess đề xuất đầu tiên vào năm 1982, sau đó với hình thức trả
lời phỏng vấn xuất hiện trong cuốn “10 phương hướng”. Naess cho rằng, hạt nhân
của sinh thái học chiều sâu là xuất phát từ góc độ sinh tồn bề sâu trong lịch sử
tinh thần nhân loại đề xuất vấn đề mấu chốt của việc nhân loại đi về đâu. Sự đối
lập “nông”, “sâu” có nghĩa là ở chõ mọi người không rõ hoặc bị coi nhẹ, mới là
khu vực thực sự cần xem xét và khai thác”(2). “Sinh thái học bề sâu” như vậy sẽ
liên quan đến vấn đề hạt nhân nhất trong sự cực đoan của tính hiện đại – sự
phát triển của khoa học kĩ thuật càng làm cho con người cự nhân hóa (làm cho
mình trở nên vĩ đại) trước tự nhiên, tự nhiên từ trong chung sống bình đẳng với
con người bị tách ra, trong cuồng vọng (ngạo mạn) nhân định thắng thiên trắng
trợn, bóc lột tự nhiên bất chấp hậu quả. Trong sự boccs lột mang tính hiện đại
của nhân loại nguy cơ của tự nhiên ở khắp nơi – biển bị đánh bắt quá độ, sa mạc
mở rộng nhanh, độ che phủ của rừng sâu bị hạ thấp, tài nguyên nước ngọt bị thiếu
nghiêm trọng, vật chủng bị diệt chủng nhanh, không khí thành thị ô nhiễm…. Đối
diện với nguy cơ sinh thái mang tính toàn cầu sắp đến, khiến con người cuối
cùng nhận rõ sự nông cạn và sự tham lam của mình. Sinh thái học bề sâu hô hào
thiết thực từ bỏ quan niệm đẳng cấp chủ nghĩa trung tâm “con người cao hơn tự
nhiên”, từ đó đề xướng con quan niệm con người và các vật chủng khác “bình đẳng
chung sống”, ngăn chặn tình trạng vì sự tham lam của cá nhân mà đưa trái đất đến
hủy diệt, từ đó cứu vớt sinh thái toàn cầu và tương lai nhân loại. Donald
Worster cho rằng: “Nguy cơ sinh thái mang tính toàn cầu mà ngày nay chúng ta phải
đối mặt, nguyên nhân ban đầu không phải ở bản thân hệ thống sinh thái, mà là ở
hệ thống văn hóa của chúng ta”. Cách tư duy nghiên cứu vấn đề sinh thái từ góc
độ văn hóa xã hội này đã trở thành ý thức văn hóa chung của những người sáng
tác văn học sinh thái”(3).
Khó khăn của phương tây đương đại nằm ở
chõ, văn hóa công nghiệp, văn hóa hải dương, văn hóa cạnh tranh, văn hóa đấu
tranh vấp phải rất nhiều vấn đề. Gần đây phó tổng thống Mĩ Albert Arnold Gore
trong him “An in convenient Truth.2006) trong một cảnh trần thuật rất ấn tượng
đã làm rõ nguy cơ trước nay chưa từng có mà con người gặp phải trong làn sóng
hiện đại: nguy cơ sinh thái, bệnh dịch lan tràn, hiệu ứng nhà kính, nam bắc cực
đang tan, văn minh cuối cùng đang tiến tới tự hủy diệt trong cạnh tranh hiện thực
và hao tổn tài nguyên không ngừng. Liên hợp quốc đề xuất ba thứ 1%, đề xuất có
ba loại bệnh cứ 100 người thì có một người mắc phải, bao gồm 1% bệnh thần kinh,
1% bệnh AIDS, 1% tự sát. Ngày nay, nhà thơ, học giả dường như ít có nỗi thống
khổ của tâm hồn thi nhân, nhà tư tưởng, chủ nghĩa khoa học tự nhiên là trung
tâm đẩy những quanhoafi nhân văn của khoa học nhân văn ra đường biên! Chỉ có ý
thức được nguy hại của tính hiện đại, từ dục vọng khôn cùng và sự xa xỉ khôn
cùng trở lại với niềm tôn kính núi sông, yêu thương và bảo vệ địa cầu, hài hòa
công bằng thì tương lai nhân loại mới có thể tốt đẹp được.
Bill
Devall trong “Sinh thái học chiều sâu” cho rằng: ngày nay, cái cần thiết lại là
mở rộng tư duy sinh thái vào trong “trí tuệ sinh thái”. Từ “trí tuệ” có nguồn gốc
Hi lạp, nó liên quan đến luân lí, chuẩn tắc, thực tiễn. Trí tuệ sinh thái, hoặc
nói sinh thái học chiều sâu có nghĩa là chuyển từ khoa học sang trí tuệ. Sinh
thái học chiều sâu có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, loại bỏ cuồng vọng của chủ nghĩa
nhân loại trung tâm, nghi vấn quan điểm bá quyền coi con người là chủ của muôn
loài trong truyền thống luân lí phương tây. Coi trọng hoạt động bảo vệ và phát
triển tài nguyên, quyền lợi động vật và giải phóng động vật, cải cách trong
lĩnh vực triết học như triết học nhân đạo chủ nghĩa, và từ góc độ sinh thái học
chỉ ra chỗ chưa đủ của chủ nghĩa nhân loại trung tâm tồn tại trong những phong
trào này, kiên trì dần dần thức tỉnh ý thức sinh thái trong dân chúng.
Thứ hai, nguyên tắc cơ bản và cấu tứ lí luận
của sinh thái học chiều sâu là: “cơ bản của sinh thái học chiều sâu là cấu
thành trực giá và kinh nghiệm của ý thức sinh thái đối với bản thân chúng ta và
tự nhiên, lập trường chính trị và phương diện chính sách công cộng đều từ trong
ý thức này tự nhiên xuất hiện”. Hai nguyên tắc quan trọng của nó là “tự ngã thực
hiện” và “bình đẳng được xây dựng trên cơ sở sinh thái trung tâm”. Nên thay thế
chủ nghĩa nhân loại trung tâm bằng chủ nghĩa sinh thái trung tâm, giá trị của
toàn bộ hệ thống thế giới nên được đánh giá lại, nên điều chỉnh lại vị trí của
bản thân trên trái đất.
Thứ ba, không phân cao thấp tăng cường nhận
thức các hình thức sinh mệnh trên thế giới. Bình đẳng nhìn nhận tất cả sinh mệnh
và tự nhiên, tất cả lợi ích của sinh mệnh tồn tại và lợi ích của bản thân vừa
có liên quan vừa dựa vào nhau. Tự nhiên không hề xung đột với lợi ích của nhân
loại, quan hoài tự nhiên chính một bộ phận của việc cá thể nhân loại thực hiện
tự ngã.
Thứ 4, Phát triển lí tưởng sinh thái
wutuobang (lí tưởng) là một bộ phận quan trọng của việc nhân loại tiến hành
giáo dục hoàn cảnh. Sinh thái wutuobang cung cấp cho nhân loại những thứ không
thể nào hoàn toàn thực hiện được nhưng lại khiến chúng ta trước sau đều duy trì
lí tưởng, tiến tới bồi dưỡng kiện toàn nhân cách có thể lí giải được “quan hệ
không thể tách rời giữa tự ngã và người khác và thế giới”, thực hiện hài hòa giữ
tự nhiên bên trong con người (tâm lí) và tự nhiên bên ngoài.
Thứ 5, tăng cường phê phán lí tính công cụ,
nhấn mạnh việc dùng lí tính nhân văn do tinh thần khai sáng hoặc thi ý nghệ thuật
biểu đạt thay thế lí tính công cụ, từ đó nâng cao giá trị tồn tại tinh thần và
chất lượng của sinh mệnh.
Thứ 6, sinh thái học chiều sâu không phải
là trò chơi lí luận trừu tượng, mà là phải là tiếng nói được phát ra một cách
chân thực trong hành động thực tiễn của văn hóa xã hội, con người có thể thông
qua căn cứ vào lí luận sinh thái học chiều sâu triển khai hành động thực tiễn
và trở thành con người kiện toàn trưởng thành hơn”(Eric Katz, Andrew Light, and
David Rothenberg (ed): Beneathe the surface: critical essays in the philosophy
of deep ecology, Cambridge, Mass: MIT press, 2000, xiii)
II. Ngữ
cảnh hiện thực của sinh thái học bề sâu
Thứ nhất, từ thời hiện đại, văn hóa nhân
loại gặp phải khó khăn tinh thần chưa từng thấy.
Khó khăn này cho thấy bề mặt của nguy cơ
phương tây là nguy cơ sinh thái tự nhiên giữa con người và môi trường, nhưng bề
sâu là nguy cơ của con người, nguy cơ của tình cảm, nguy cơ của nghệ thuật. Văn
hóa hậu hiện đại do xã hội hậu công nghiệp nổi lên từ những năm 50, 60 của thế
kỉ 20 mang lại làm cho “tính hiện đại” bị nghi ngờ. Cùng với sự tăng nhanh chưa
từng thấy của tri thức nhân loại, bá quyền và sự mở rộng của khoa học kĩ thuật
dẫn đến nguy cơ tính hiện đại hợp pháp hóa. Hiện trạng này quy phạm sau sắc cơ
chế tâm lí và mô thức hành vi của con người, dẫn đến khuynh hướng cực đoan phản
văn hóa, phản mĩ học, phản văn học. Ý nghĩa của sinh mệnh và độ sâu của nghệ
thuật cùng tiêu biến, sự thẩm thấu của ý thức tiêu dùng khiến cho hai lĩnh vực
tự nhiên và ý thức nhân loại dần dần bị thương phẩm hóa, thêm nữa, biên giới giữa
văn hóa cao nhã và văn hóa thông tục dần dần trở nên mơ hồ. Đối với nguy cơ văn
hóa từ văn hóa chủ nghĩa hiện đại, đối với hiện tượng cuộc sống tâm linh bị thi
nhân gọi là “con người không thể độ qua u nhã được nữa, con người mất đi sức mạnh
cổ điển và siêu việt về tinh thần, con người chỉ là dã thú có cái đầu văn minh
thục mạng trong thế giới tham vọng vật chất”, không chỉ các nhà tư tưởng phương
tây ý thức được, các nhà tư tưởng nghệ thuật phương đông cũng đã quan sát thể
nghiệm thấy. Các nhà triết học để cứu rỗi tâm hồn nghẹt thở, giải phóng sinh mệnh
bị vắt kiệt, đã đưa ra một đơn thuốc phù hợp với mọi người: dùng khí vận của
nghệ thuật mang đến tâm huyết cho sinh mệnh, lấy ý cảnh của nghệ thuật để nâng
cao cảnh giới nhân sinh, làm cho nó thoát khỏi dục vọng vật chất, quay trở lại
gia viên tinh thần.
Vì thế, linh tính nghệ thuật trở thành mục
tiêu mà triết gia thi nhân theo đuổi. Chính vì điều đó, Heidegger muốn con người
chuyển biến hướng tới dục vọng bên ngoài, ngưng thần tĩnh tứ, thể hội tâm hồn
thi nhân triết nhân, cảm thụ nỗi buồn, làm cho mình trở thành con người gần với
thi tứ. Phương thức nhấn mạnh quan tâm đến thi ý và trực quan bản chất chính là
lấy sinh mệnh hữu hạn nắm bắt ý nghĩa và giá trị nhân sinh. Chỉ có hết lòng
thanh lọc, mới có thể tồn thần kiến đạo. Quan điểm này có ảnh hưởng lớn đối với
mĩ học nghệ thuật phương tây, sau đó Adonor, Bloch, Marcuse đều rất coi trọng sự
sinh thành thẩm mĩ cảm tính đi giải cáu tâm tính bị che phủ của con người.
Con người theo đuổi mục đích bên ngoài một
cách thái quá thường vô tình làm cho mình chìm vào “thủ đoạn” đáng thương. Đồng
thời, khi con người quá mức chú ý đến “trò chơi ngôn từ” sẽ gặp phải khó khăn đứt
đoạn tư duy, cùng đường ngôn ngữ. Quan tâm đến sự siêu việt tâm tính, an định
tâm hồn, để đạt được vĩ độ giải phóng tự do tinh thần, đối với các nhà thi học
mang tính triết lí là điều riêng biệt. Sinhthais học coi trọng công hiệu thăng
hoa của nghệ thuật đối với tâm hồn, và xuất phát từ một sự tồn tại (đạo) cao
hơn kêu gọi con người tiến vào cảnh giới thẩm mĩ, từ hiện thực quy phạm trong
thuần thẩm mĩ chuyển sang tuần tồn tại. Dùng dòng suối trong trẻo của nghệ thuật
để rửa sạch bụi trần của thế tục, trong hàm ẩn tĩnh lặng ôm ấp tình cảm sâu sắc
đối với con người và thế giới, vừa vượt qua hiện thực vừa có thi ý quay trở lại
nhân sinh, đây chính là sự ăn ý nội tại của con người và tinh thần nghệ thuật,
có lẽ cũng là sự quan chiếu bản chất đối với tính siêu việt của con người. Vì thế,
Bill Devall cho rằng: “sinh thái học bề sâu cố gắng phát triển quan hệ cân bằng
mà hài hòa giữa cá thể, xã hội và tất cả tự nhiên.
Về căn bản, nó có thể thỏa mãn sự kêu gọi
tầng sâu của chúng ta: trung thành và tin tưởng trực giác của chúng ta; dũng cảm
sử dụng tiết tấu bản thân, tiết tấu dòng chảy, sự biến hóa của thời tiết và các
mùa, được phát hiện do đối thoại tự phát mà đầy tinh thần trò chơi của quá
trình của tất cả sinh mệnh trên tái đất”(1). Có thể nói, sinh thái học bề sâu
muốn thông qua hun đúc ra cá thể có ý thức sinhthais theo đuổi công việc văn
hóa mới, từ căn bản loại bỏ mầm bệnh dẫn đến văn minh hiện đại đầy nguy cơ sinh
thái.
Thứ 2: Sự phiến đoạn của con người làm xuất
hiện vấn đề “sinh thái tinh thần”.
Ngày nay, trong hoàn cảnh toàn cầu hóa
nghiên cứu vấn đề sinh thái tinh thần của con người trong nguy cơ môi trường
làm thế nào để đạt đến sự hài hòa, không chỉ cho thấy “phát triển toàn diện của
con người” đã trở thành vấn đề, mà “sinh thái tinh thần” cũng đã trở thành vấn
đề. Cảnh tượng thế tục hóa mang tính hiện đại của phương tây: từ thần thoại của
con người đến thần đã chết, con người viết hoa đã chết rồi, tinh anh tri thức
đã chết, còn lại chỉ là con người viết thường và con người thấp hơn; sự hợp lí
hóa từ không tưởng đến đời sống thường nhật, đời sống thế tục trở thành biệt
danh của hạnh phúc; từ chủ nghĩa lí tính trung tâm đến chủ nghĩa cảm giác trung
tâm, tâm thái của toàn bộ thế giới và tri thức phân tử đã phát sinh lệch lạc
toàn bộ, sự phiến diện của con người phát triển thành tiêu chí của thời đại.
Rosenberg giải thích: “tư duy có tính liên quan thực sự sẽ hóa giải thực thể với
tư cách là đoạn điểm kiến lập quan hệ (???). Con người đã không tồn tại, tự
nhiên đã không tồn tại, chỉ có thể liên tục với tư cách là lực lượng truy vấn sớm
nhất. Như vậy, mỗi loại tình cảm nhất định nào đó sẽ đem bóng dáng rõ ràng hoặc
âm u tập trung vào quan sát đối với vận động, tập trung vào lực lượng chiêu
hoan (kêu gọi), lực lượng này dường như đến từ tự nhiên, lại dường như là chịu ảnh
hưởng của chúng ta, nhưng trên thực tế, nó không thuộc về ai, nó là sự liên tiếp
giữa người xem và người bị xem” (1). Trên thực tế con người trong thời đại phiến
đoạn hóa ngày càng phiến đoạn hóa và dị hóa. Con người đã đi ra từ trong quan
niệm thời gian tuyến tình tiền hiện đại, tiến vào thời gian hiện tại mang tính
hiện đại, rồi lại tiến thêm một bước nữa tiến vào vô thời gian – không gian hóa
thời gian của thời hậu hiện đại. Do đó, văn hóa đã xa rời quý tộc hóa và độc
quyền hóa, đã xa rời tính quyền uy và tính khai sáng, tiến vào nhục thể hóa, đọc
thoại hóa, tự yêu hóa, dục vọng hóa, bỉ ải hóa (thấp hơn), tự biếm hóa, tiêu
dùng hóa. Làm thế nào khiến văn hóa và tinh thần con người phát triển một cách
sinh thái xanh hóa, cần phải xem xét cẩn thận và thực tiễn.
Thứ 3, sinh thái học chiều sâu là chủ
nghĩa môi trường bề sâu cấp tiến (kích tiến).
Theo tôi, sinh thái học bề sâu là một loại
triết học sinh thái có chiều sâu, nó thăng hoa thành trí tuệ sinh thái suy nghĩ
“mang tính nhân loại” từ trong quan hệ giữa con người và thế giới hoặc quan hệ
chiều sâu giữa con người và thế giới phi nhân loại, loại trí tuệ cao mang tính
chỉnh thể này lấy quan hệ giữa con người và tự nhiên làm hạt nhân và căn bản của
sự xem xét của nó, từ đó vượt qua truyền thống triết học đối lập nhị nguyên giữa
chủ quan và khách quan phương tây. “Bản thân tự nhiên với tư cách là một bài
thơ cụ thể là đầy hỗn độn. Tiết tấu và thi tiết từ một thời khắc chuyển biến
sang một thời khắc khác. Nhưng chúng ta vĩnh viễn không phải là thuộc tính chỉ
quyết định vật mà chúng ta nhìn thấy. Chúng ta hi vọng nhìn thấy kết cấu, và
quyết định nó ở đâu. Khi chúng ta nhìn, thế giới cung cấp cho chúng ta trật tự.
Chúng ta không chọn nơi sinh sống. Nó cho phép chúng ta sinh trưởng phồn vinh
trong đó”(2). Thực ra, phía sau hiện tượng sinh mệnh vô cùng phong phú của thế
giới này tồn tại một sức mạnh sinh mệnh căn bản và thâm trầm hơn, nó là tiền đề
của tất cả mọi vật tồn tại trên thế giới.
Nhà lí luận sinh thái học chiều sâu căn bản
thừa nhận hai nguyên tắc cơ bản, “nguyên tắc bình đẳng của trung tâm sinh thái”
và “nguyên tắc tự mình thực hienj”. Xuất phát từ hai nguyên tắc này, sinh thái
học chiều sâu trên phương diện quan hệ con người và tự nhiên kiên trì tư tưởng
mang tính chỉnh thể của hệ thống sinh thái, phản đối độc lập chủ nghĩa cá thể
hoặc nằm ngoài tính chỉnh thể. Từ đó phản kháng chủ nghĩa cá nhân và trên cá
nhân của truyền thống phương tây. Sinh thái học chiều sâu thêm bước nữa cho rằng
chỉnh thể có ý nghĩa mang tính quyết dịnh đối với cá thể, không có bất kì một
cá thể nào có thể thoát li hệ thống chỉnh thể nhân loại mà tồn tại. (3).
Nguyên tắc bình đẳng của sinh thái học bề
sâu có tính cao xa của “bình đẳng chúng sinh”, tất cả sinh mệnh và tồn tại đều
có giá trị nội tại không thể tước đoạt, không thể thay thế. Con người không cao
hơn bất kì chủng vật nào, mà chỉ là một bộ phận bình đẳng trong hệ thống sinh
thái. Nó kiên quyết chống lại lập trường chủ nghĩa nhân loại trung tâm chỉ xuất
phát từ lợi ích của nhân loại bóc lột tự nhiên. Cũng như vậy, sinh thái học bề
sâu không hề bi quan về tương lai của nhân loại, mà là diễn ngôn lí luận trong
nguy cơ môi trường đầy lạc quan về tương lai. Họ liên kết vấn đề nguy cơ sinh
thái và viễn cảnh văn hóa, cố gắng làm lộ ra tâm lí văn hóa nhân loại và phạm
thức chế độ làm thế nào ảnh hưởng đến sinh thái toàn cầu và thông qua phản tư
sâu sắc chỉnh lí lại văn hóa nhân loại.
Tiết 5: Ý nghĩa của phê bình sinh thái đối
với văn luận đương đại
Toàn cầu hóa của văn hóa phương tây là bắt
đầu sự suy tàn tính phong phú đa nguyên văn hóa của nhân loại. Chế độ chính trị,
chuẩn tắc nhân quyền, hệ thống tiền tệ, sự phát triển khoa học kĩ thuật của con
người đều được toàn cầu hóa, đây là bảo đảm cơ bản cho việc nhân loại cùng tiến
bộ. Nhưng hình thái văn hóa, cảm tính thẩm mĩ, tinhthaafn nghệ thuật, tín ngưỡng
tôn giáo phải giữ được đặc sắc riêng của mình, mất đi điều này sinh thái văn
hóa sinh thái tinh thần nhân loại sẽ xuất hiện sự lệch lạc bản thể và đứt gãy lớn.
Sự đứt đoạn giá trị mang tính nhân loại và
chỉnh hợp diễn ngôn trọng điểm đông tây
Văn luận phê bình sinh thái vừa xuất phát
từ góc nhìn sinh thái học nghiên cứu quan hệ giữa văn học và hệ thống sinh thái
vũ trụ vừa từ góc độ sinh thái học nhìn nhân phê bình văn học, nhấn mạnh góc độ
sinh thái học cao hơn góc độ thẩm mnix, thẩm nmix phục tùng sinh thái, làm cho
sinh thái và thẩm mĩ cùng đạt được sự giải thích tương tác lẫn nhau. Ở tầng sâu
hơn xem xét phổ hệ sinh thái tinh thần nhân loại: Vấn đề “đứt gẫy giá trị mang
tính nhân loại quấy nhiễu nhân loại, bất luận là Mĩ hay là châu Âu, đông nam á
hay là châu phi, vấn đề chung phải đối mặt đều là luân lí giá trị đương đại, hứng thú thẩm mĩ,
tham vọng tâm tính và sự đứt đoạn chỉnh thể và suy đồi trên diện rộng của truyền
thống. “đứt đoạn giá trị” truyền thống tạo thành nhân loại phải bắt đầu từ số
0, phủ định bản nguyên giá trị của vật chất khổng lồ, tài sản tinh thần và nồng
hậu nhân loại mà quá khứ sáng tạo ra, làm cho cái gọi là “chủ nghĩa duy tân”
luôn theo đuổi cái mới trở thành cái cớ để giải quyết triệt để truyền thống. Kết
quả của nó khiến con người trở thành mất gốc, mất nguồn, mất bản, không nhà, thế
là tìm nhà, về nhà, tinh thần phục quy – tìm cố hương và gia viên tinhthaafn
nhân loại trở thành sự khắc họa chân thực của sinh mệnh tinh thần nhân loại hậu
hiện đại.
Trên
vấn đề văn hóa sinh thái và phê bình sinh thái, có một vấn đề quan trọng phải
nêu ra. Đề xuất vấn đề văn hóa sinh thái, một mặt là tự phản tư sản sinh trong
nội bộ tính hiện đại, mặt khác là sự uốn nắn trên một mức độ nào đó của văn hóa
phương đông với văn hóa hiện đại phương tây. Từ góc độ lịch sử, cội nguồn văn
hóa đông tây có duyên gắn bó. Một giai đoạn tương đối dài, Hi lạp cổ đại được
xem là bản nguyên của văn minh phương tây. Trên thực tế, quan niệm coi văn minh
Hi Lạp là truyền thống văn minh phương tây trong thời đương đại gặp phải ngày
càng nhiều nghi ngờ. Ở một ý nghĩa nào đó, đây là thiên kiến văn hóa được hình
thành do quan niệm chủ nghĩa phương tây là trung tâm. Hi Lạp là hình thái văn
hóa phát huy rực rỡ sau một lần đứt gãy (trung đoạn) của văn minh phương tây.
Văn minh phương Tây không chỉ có nguồn gốc từ Crete của Hi Lạp, hơn nữa có quan
hệ mật thiết với khu vực cận đông cổ, đặc biệt là văn hóa lưu vực hai con sông
Dijla và –Euphrates.
Nói
thẳng ra, văn minh phương tây chịu ảnh hưởng rất lớn của văn minh phương Đông.
Người phương Tây coi Hi Lạp là mở đầu của văn minh phương tây, và dùng các loại
tự sự hiện đại diễn giải và khởi nguồn văn hóa này, thêm nữa coi văn hóa phương
tây là ánh sáng sớm nhất của nhân loại một cách phiến diện. Sự thực nằm ở, văn
hóa Hi Lạo với tư cách là văn minh từng thất lạc, là hình thái văn minh được
coi là liên quán (xuyên suốt) được sáng tạo ra do nhu cầu hiện đại và toàn cầu
hóa từ thời cận đại đến nay. Kì thực, văn minh phương tây vừa không phải là văn
minh có tính liên tục, lại vừa không phải là hình thái văn minh trưởng thành độc
lập, mà là văn minh chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn minh phương Đông. Nhà sử học
người Mĩ Durant trong “Lịch sử văn minh thế giới. Di sản phương đông” nói:
“Chúng ta sở dĩ bắt đầu từ phương Đông, không phải là vì châu Á là nơi văn minh
cổ nhất mà chúng ta thường biết, mà là vì Văn minh châu Á là bối cảnh và nền tảng
hình thành văn hóa Hi lạp và La mã, mà Sir Henry Maine vẫn sai lầm cho rằng Hi
Lạp và La mã vẫn là cội nguồn của văn minh hiện đại. Khi chúng ta biết phần lớn
phát minh to lớn, tổ chức kinh tế và chính trị, khoa học và văn học, triết học
và tôn giáo, đều đến từ Ai cập và phương Đông, chúng ta sẽ kinh ngạc không dứt”.
Sự
xử lí quan hệ giữa con người và con người, xử lí quan hệ giữa con người và sức
mạnh siêu tự nhiên trong văn minh lưu vực lưỡng hà và Ai cập đã gợi mở cho người
phương Tây. Ở phương diện văn tự, nghệ thuật, tôn giáo…, văn minh phương Tây đã
mượn rất nhiều từ văn minh cận đông: như kiến trúc học, trắc lượng học, thành
kiến học (xây thành), kĩ thuật quân sự, thuật chế tạo, nghệ thuật điêu khắc đều
là truyền nhập từ lưu vực lưỡng hà và Ai cập, và thiên văn học, toán học, hình
học, tu từ học, lịch pháp, nghệ thuật buôn bán, sử dụng tiền tệ, kí kết điều ước
quốc tế đều do văn minh lưỡng hà và Ai cập sáng tạo và lưu truyền. Trên ý nghĩa
này, có thể nói, văn hóa phương Tây thậm chí cả tôn giáo đều có nhân tố phương
đông, có mỗi quan hệ gắn bó với phương Đông, văn minh phương Tây do hấp thu văn
minh tiên tiến phương Đông mà có được năng lược tinh thần. Chính là đặt con người
vào trung tâm vũ trụ, nhấn mạnh “con người là thước đo của vạn vật” (lời của
Protagoras), mới khiến người phương tây hiện đại và người Hi lạp cổ đại trong sự
kiên trì chủ nghĩa nhân văn, dương cao nhân tính tìm được tiếng nói tinh thần
chung.
Vì
thế, văn hóa sinh thái ngày nay khiến văn hóa phương Đông một lần nữa sản sinh ảnh
hưởng đối với văn hóa quan trọng (moyan) phương tây, sự lưu động và tác động lẫn
nhau của diễn ngôn sinh thái này, thực sự là phúc âm (âm thanh tốt đẹp) giúp
nhân loại thoát ra khỏi nguy cơ sinh thái và nguy cơ tinh thần”(1).
Văn hóa sinh thái lắng nghe tiếng chuông cảnh
tỉnh của sự diệt chủng vật chủng
Các nhà nghệ thuật và mĩ học phương Tây những
năm gần đây ra sức đề xướng văn hóa và mĩ học sinh thái, phương diện này có sự
phản tỉnh về rất nhiêu vấn đề xuất hiện trong xã hội công nghiệp hoặc xã hội hậu
công nghiệp, mặt khác cũng có sự ngăn chặn sự thấp hèn và đẫm máu xuất hiện quá
nhiều trong nghệ thuật mấy chục năm gần đây. Trong sự mở rộng của toàn cầu hóa,
mĩ học sinh thái này nhận được sự đồng tình rộng rãi của nhiều người. Nhưng vấn
đề nằm ở chỗ: “từ thế kỉ này, đã có hơn 5400 loại động vật bị diệt chủng sớm
trong sự thống trị của nhân loại, nhân loại ngày nay đã sớm vì sự sinh tồn mà
đi từ tìm kiếm một cách có tiết chế từ tự nhiên sang tham vọng không có chút tiết
chế nào. Nhân loạt đồng loạt giết hại động vật, không khí đẫm máu phủ khắp trời
đất. Mà các loại động vật thì có hạn còn dục vọng của con người thì vô cùng. Cuồng
vọng cướp bóc không tiết chế này đã phá hoại liên kết sinh vật của thế giới tự
nhiên, cuối cùng sẽ khiến bản thân nhân loại cũng bị dồn đến chỗ tử vong”. Tôi
nghĩ, nhân loại chắc chắn đã trở thành động vật hung tàn dã man nhất trên thế
giới này, cuồng vọng ngược đãi và chiếm hữu cá nhân do cơ khí “hiện đại tính”
mang lại khiến nhân loại rơi vào trong khó khăn ngược đãi và tự sát chưa từng
có từ thời cổ đại. Kêu gọi đối đãi tốt với động vật là điều đáng để con người
thế kỉ mới suy nghĩ sâu thêm.
Theo
tôi, trong quan hệ căng thẳng giữa con người và động vật trong thời kì toàn cầu
hóa, bản tính thích giết chóc này của con người, sự cổ vũ của chủ nghĩa Darwin
xã hội này, thực tế đã khiến quan hệ hài hòa giữa con người và động vật bị bóp
méo triệt để, khiến cho con người trở thành loài không ngừng dùng đủ loại lí do
(chính trị, kinh tế, văn hóa, thậm chí cả nghệ thuật) yên tâm theo đuổi sự tàn
sát lạnh lùng, tiến tới thao tác hóa, biểu diễn hóa giết chóc! Từ đó mà mất đi
phép tắc cơ bản và tri thức chung nhân tính đồng nhất giữa con người và vạn vật.
Không chỉ như vậy, cái tạo ra cảm giác đẫm máu này, trên thực tế là kẻ thúc đẩy
bá quyền nhân loại hư danh của chủ nghĩa nhân loại trung tâm, cho rằng con người
có thể ở trên tất cả mọi động vật một cách ấu trĩ, có thể tùy ý quyết định sinh
tử của động vật, có thể đem ý chí của bản thân áp đặt một cách vô hạn lên động
vật. Nhân loại đang lạm dụng huy chương của quyền lực thượng đế, đang trộng mầm
họa chgo con người từ việc tách rời ra khỏi chỉnh thể dây xích sinh vật.
Phê
bình sinh thái yêu cầu con người làm được: không ngừng giảm bớt dục vọng tham
lam trong cốt tủy của con người, không mượn bất kì một mục đích đường hoàng nào
để theo đuổi giết hại, không vì bất kì lí do nào để tạo ra cớ giết hại. Để thể
hiện sự giầu có mà mặc những đồ lông thú, ở phương Tây đã trở thành tục xấu,
hành vi gần như phạm tội nếu nhìn từ góc độ tổ chức bảo vệ môi trường. Cũng như
vậy, vì tham lam khoái khẩu mà lạm sát động vật đã thể hiện cái nhìn ngắn và sự
điên cuồng của nhân loại. Thời gian biểu báo thù của tự nhiên đã rút ngắn lại
và điền đầy, 5400 loài động vật đã sớm bị tuyệt chủng dưới sự thống trị của con
người, là một tiếng chuông cảnh tỉnh đối với tương lai khó nói bằng lời của
nhân loại.
Hướng phát triển mới của văn hóa sinh thái
đối với ý nghĩa sinh tồn của con người
“Tầm căn văn hóa” trên ý nghĩa mĩ học sinh
thái của Redfield không giống với văn học tầm căn lấy việc tìm kiếm và tái hiện
tinh thần dân tộc truyền thống, phong tục hương thổ làm đặc sắc, mà là lấy sự hồi
cố và triển vọng của văn minh nhân loại làm khung cấu tứ vĩ mô, muốn dẫn dắt
con người giác ngộ thế giới quan mới nào đó mà tác giả vững tin – tư tưởng của
phong trào thời đại mới (new age). Vì thế, văn học tầm căn hậu kì thế kỉ 20
không chỉ là hiện tượng văn học, đồng thời cũng la hiện tượng văn hóa quan trọng
thể hiện phong trào tư tưởng dân gian
phương tây.
Mấy
chục năm gần dây, hình thái đời sống phương tây mô phỏng phương đông, đã xuất
hiện xu thế “chủ nghĩa đời sống chậm rãi” rộng khắp thế giới. Năm 1986 nhà văn
Ý Carlo Petrinin đã phát động và lôi kéo làn song “sống chậm” mang tính toàn cầu.
Năm 1999, lần đầu tiên “đại hội quốc tế thành phố chậm” được tổ chức tại
Orvieto của Ý. “Thành phố chậm” có nhiều không gian và đất xanh hơn mang đến
cho con người cuộc sống nhà tàn vui vẻ với tiết tấu chậm, ở Ý có hơn 30 thành
phố nhỏ gia nhập hàng ngũ “thành phố chậm”. Mấy năm gần đây, “trường học chậm”
của Mĩ bắt đầu xuất hiện, University of California – Berkeley là một ví dụ tiêu
biểu. Ở trường này không có cạnh tranh thục mạng, không có thời gian làm việc
nghỉ ngơi nghiêm ngặt, và cái gọi là cơ chế cạnh tranh, sắp xếp thời gian lên lớp
và giáo trình đều dựa theo nhu cầu của học sinh. Vì thế, mọi người vận động chầm
chậm, hít thờ chầm chậm, ăn uống chầm chậm, láng nghe chầm chậm, thong thả ung
dung làm việc, giao lưu với nhau hài hòa nhẹ nhàng, vui mừng thỏa mãn, chậm rãi
hưởng thụ cuộc sống, đây là một cảnh giới rất cao.
Cũng
như vậy, người phương Tây hấp thu tinh thần phương đông, dẫn đến mấy năm gần
đây ở châu Âu đã xuất hienj “chủ nghĩa sống cực giản đơn”. Mọi người nhận ra rằng,
con người đã rơi vào tuần hoàn ác tính của “gia pháp” tham lam, càng làm càng
nhiều, càng nhiều càng làm, tiết tấu càng ngày càng nhanh, cuộc sống càng ngày
càng bận rộn, sức sống càng ngày càng yếu đi, thời gian càng ngày càng ít. Do
đó, người phương tây học tập phương Đông, bắt đầu thực hiện “phép giảm sinh mệnh”(sinh
mệnh giản pháp) – Lão Tử nói thuận theo tự nhiên thì cái gì cũng có thể làm được.
Con người cảm thấy cuộc sống vốn có thể giản đơn như vậy – mà sự thực thì cuộc
sống vốn giản đơn như vậy!
Tóm lại, đối diện với chủ nghĩa tiêu dùng
và chủ nghĩa bá quyền văn hóa, chủ nghĩa sinh thái đề xướng phương thức sống giản
đơn và phương thức tiêu dùng giản đơn mang ý nghĩa sinh thái văn hóa. Sự khuếch
trương “thân thể” chủ nghĩa tiêu dùng và logic tiềm tại đồng chất hóa toàn cầu
khiến cho chủ nghĩa tiêu dùng ngày một rõ ràng. Một số người phản đối chủ nghĩa
tiêu dùng, cổ vũ phương thức sống sinh thái xanh cho rằng: cuộc sống hiện đại
và hiện đại hóa không phải là nhà làu, xe hơi, virus, hoang mạc, bão cát, cuộc
sống tốt đẹp thực sự không cần sự điêu khắc trang sức tốt nhiều công sức và sự
hào nhoáng vật chất vượt nhu cầu. Ngày nay rất nhiều người đã nhận thức ra hạn
chế của phương thức sinh tồn “thục mạng sản xuất, thục mạng tiêu dùng”, trong
giai cấp trung sản lặng lẽ hưng khởi “cuộc sống giản đơn” – chuyển nhà về nông
thôn, tự làm nhà gỗ, không sử dụng quá nhiều dụng cụ điện, kiếm tiền có hạn, ra
sức hưởng thụ không khí và ánh mặt trời của đại tự nhiên. Nhà xã họi học cho rằng:
“cuộc sống giản đơn” trở lại nguyên dạng, quay về với tự nhiên, “ít chính là
nhiều” (less is more) ở thế kỉ 21 nó chắc chắn sẽ trở thành không khí phổ biến.
Có lẽ, cuộc sống giản đơn, tiêu dùng giản đaown cũng giống như cuộc sống giản dị
cuối đời của Tolstoi có thể sẽ lại thể hiện sự hấp dẫn của nó.
Thực ra, việc chinh phục vô tận của con
người đối với không gian ngoại giới khiến con người trở nên càng ngày càng nhỏ
bé. Các nhà khoa học hiện nay cơ bản có một quan niệm chung, đó là hệ mặt trời
không chỉ là một, mà có 10 vạn. Chúng ta đối mặt với vô cùng của không gian và
thời gian mênh mông, vũ trụ cũng không chỉ có một, mà có phức số - trên 10 hoặc
trên 100. Trong vũ trụ phức số này, vật thể phát quang có 5%, có 95% vật thể
không phát quang lặng lẽ quyết định vận mệnh của vũ trụ. Trong đó, con người chẳng
qua chỉ là một hạt cát, bất kì một sự tình nào có thể làm, đối với vũ trụ mênh
mông mà nói, đều vô cùng bé nhỏ.
Ngày nay các nhà khoa học phương Tây cảnh
cáo mọi người rằng: môi trường trái đất đang ngày một xấu đi, các tầng băng Nam
cực tan, một mặt phá hoại của nó sẽ làm cho bệnh dịch tồn hàng tram vạn năm
trong băng sâu lan tràn, nhân loại không có bất kì sức miễn dịch nào đối với những
mầm bệnh này; mặt khác, sau khi băng Nam Bắc cực tan, mặt nước biển tăng cao 20
mét, điều này có nghĩa là quốc gia ven biển như Nhật Bản sẽ chìm trong biển,
Venice sẽ chìm dới đáy biển, rất nhiều thành phố ben biển đều sẽ bị nhấn chìm,
rất nhiều vùng đồng bằng phì nhiêu hàng vạn năm của nhân lại đều sẽ chìm xuống
đáy biển. Nếu mở rộng thành phố và tiêu thụ quá độ tài nguyên tự nhiên, tăng
cao hiệu ứng nhà kính, tương lai thế giới sẽ không hề tươi đẹp. Vì thế, tương
lai của nhân loại nên là tương lai mà cả đông tây đều phải cùng suy nghĩ, cũng
là tương lai quy hoạch thế giới mới xuất hiện trong đối thoại đông tây.
Gợi
ý của văn hóa sinh thái và sáng tạo mới chỉnh thể giá trị tinh thần
Nhà khoa học Nhật Bản Masaru Emoto đã làm
một thực nghiệm: đặt một cốc nước, sau đó mở nhạc vô cùng thuần mĩ của Bach,
Mozart, Beethoven, sau đó mang cốc đi dùng kính lúp soi, phát hiện phân tử nước
trình hiện ra vẻ đẹp vô cùng huy hoàng, đem cốc nóc đặt trong âm nhạc chói tai
hỗn tạo của nhạc Rock, kết cấu của phân tử nước đã phát sinh thay đổi kết cấu
phân tử theo hướng xấu đi. Chúng ta đều biết, cơ thể người 80% là nước, vào
trong âm thanh hỗn tạp phản sinh thái, làm sao lại không bị dị hóa (Đột biến
gen) cho được? Cũng như vậy, phi nghệ thuật trở thành giáo hoàng chính trị
khách đoạt chủ, nghệ thuật chân chính liền biến thành nghệ thuật bệnh tật.
Ngày
nay, Quan niệm về sinh thái tự nhiên được người phương Tây đưa vào lĩnh vực giá
trị nhân văn, bắt đầu nghiên cứu văn hóa sinh thái, triết học sinh thái, mĩ học
sinh thái, nghệ thuật sinh thái. Điều này có nghĩa là nhân loại từ trong chiến
thắng tự nhiên bất thường (trái tính trái nết, dở hơi) bắt đầu học cách tôn trọng
tự nhiên và nhân tính. Văn hóa truyền thống Trung Quốc và nước ngoài về cơ bản
là tôn sung vẻ đẹp hài hòa trung dung “thiên nhân hợp nhất”, cho nên bất luận
là văn minh Hi lạp cổ đại hay là tinh thần văn hóa tiên Tần, đều đề xướng tinh
thần hài hòa sinh thái của đạo trung dung. Hi lạp cổ đại phương Tây có tư tưởng
“trung dung”: nhà toán học Pitago trong “Kim ngôn” có nói: “tất cả sự tình,
trung dung là tốt nhất”; nhà triết học Democritus nói: “linh hồn bất định dao động
từ một cực đoan này đến một cực đoan khác, là điều vừa không ổn định vừa không
vui vẻ”; Socrates đã thảo luận về vấn đề “trung đạo”, Platon cho rằng cần có
nguyên tắc “trung” để luận chứng chân lí tuyệt đối chính xác, Aristote trong
“Chính trị học” và “Luân lí học Nikomachea”( Ethika Nikomachea), đã phân tích về
“trung dung”: “Trung dung giữa quá độ và bất cập, giữa hai việc không tốt.
Trong cảm thụ và hành vi đều có giới hạn bất cập và siêu việt nên có, đức hạnh
lại tìm kiếm và lựa chọn trung gian. Trung dung là cái thiện cao nhất và cái đẹp
cao nhất”. Có thể nói, Khổng Tử, Lão Tử, Không Tứ và Platon, Aristote trên quan
điểm “trung đạo” rất gần gũi chí thú, không hẹn mà gặp, đã quyết định địa vị hạt
nhân trong tư tưởng luân lí cổ điển Trung Quóc, phương Tây, ảnh hưởng nhiều hơn
đến tiến trình phát triển 2000 năm nay của thế giới Trung Quốc phương tây.
Nhưng
khi đối lập nhị nguyên hiện đại phản bội tinh thần đa nguyên “một phân ba” của
Trung Dung, nghệ thuật hiện đại đã trở thành nghệ thuật “phản kháng”, nghệ thuật
phương tây đã trở nên “xấu xí”. Mĩ học sinh thái kêu gọi, thế giới ngày nay
không cần dùng tính hiện đại của “tính thẩm mĩ” để phản kháng tính hiện đại của
“tính chế độ”, mà dùng cân bằng sinh thái để yêu cầu cân bằng sinh thái tinh thần
của con người. Tinh hiện đại đã xuất hiện đứt đoạn của tính chế độ “dị hóa”, dẫn
đến phương diện nghệ thuật đã xuất hiện đứt đoạn mang tính tinh thần, chỉ có
thông qua điều chỉnh văn hóa sinh thái mới có thể tránh được việc dẫm lên vết
xe đổ, mà tìm được đường xây dựng lại thân phận văn hóa.
Chúng ta phải loại bỏ tính thấp kém, hư vô
của văn hóa hiện đại và nghệ thuật hậu hiện đại phương tây, bình tĩnh xem xét
tương lai nhân loại liệu có thể chỉnh hợp yếu tố tương thông tinh thần trong
văn hóa đông tây, trong lí giải lẫn nhau loại trừ tính tương tự tâm linh giữa
văn hóa khác biệt được phát hiện trong việc hiểu sai văn hóa. Trong sáng tạo
trên chỉnh thể sinh thái văn hóa chân chính, lấy ra tâm trí và dũng khí to lớn
để giải quyết vấn đề mất cân bằng sinh thái tinh thần mà nhân loại đang cùng phải
đối mặt, làm cho nhân loại cáo biệt chiến tranh lạnh, chiến tranh, bệnh dịch, tội
ác, hướng tới xã hội và tự nhiên sinh thái xanh của thế kỉ mới, làm cho nhân
tính mang sắc xanh của sinh mệnh hơn”(1).
Ecophilosophy:
Triết học sinh thái
Eco-theology:
thần học sinh thái
Ecological
politics: chính trị học sinh thái
Ecological
economics: Kinh tế học sinh thái
Ecological
humanism: chủ nghĩa nhân văn sinh thái
Ecofeminism:
Chủ nghĩa nữ tính sinh thái
Ecoliterature:
Văn học sinh thái
Ecological
art: nghệ thuật sinh thái
Ecosociology:
xã hội học sinh thái
Ecological:
Luân lí học sinh thái
Ecological
anthropology: nhân loại học sinh thái
Ecological
psychology: Tâm lí học sinh thái
Ecocriticism:
phê bình sinh thái
Deep
ecology: Chủ nghĩa sinh thái chiều sâu
Less is more: ít chính là nhiều
Tính
thực tiễn của văn hóa sinh thái là gì?
Thử
miêu tả quỹ tích phát triển của lí luận sinh thái
Sự
phát triển và đặc trưng cơ bản của phê bình sinh thái
Chủ
trương lí luận và ngữ cản hiện thực của sinh thái học bề sâu
Văn
hóa sinh thái có ý nghĩa gì đối với sinh tồn của con người.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét