Như chúng ta đã biết, trường phái Mĩ
học tiếp nhận Konstanz Đức ra đời vào những năm 60 của thế kỉ 20 và đạt đến đỉnh
cao vào những năm 70. Nó đã góp phần thúc đẩy nghiên cứu văn học thế giới chuyển
trung tâm tnghiên cứu tác giả, văn bản sang nghiên cứu độc giả và sự tiếp nhận.
Mĩ học tiếp nhận đến Trung Quốc đã tạo nên một phong trào nghiên cứu khá rầm rộ
và để lại dấu ấn khá rõ nét trong lịch sử nghiên cứu văn học của quốc gia này. Bài
viết hướng tới giới thiệu đặc điểm tiếp nhận, nghiên cứu, vận dụng Mĩ học tiếp
nhận của giới nghiên cứu văn học Trung Quốc trong hơn 30 năm qua.
1.
Dịch
giới thiệu Mĩ học tiếp nhận một cách toàn diện
Trước
thập niên 80, trong một thời gian tương đối dài, nghiên cứu văn học Trung Quốc
chủ yếu tiếp nhận ảnh hưởng của lí thuyết văn học Xô Viết, mà chủ yếu là lí luận
phê bình văn học Mác xít, trong khi đó nghiên cứu văn học thế giới đã chuyển sang
phổ hệ hậu hiện đại. Đối diện với sự yếu kém của lí luận văn học trong nước, thập
niên 80-90 Trung Quốc tập trung tinh lực phiên dịch lí luận văn học đương đại phương
Tây với mong muốn nhanh chóng hiện đại hóa lí luận văn học nước nhà. Khi phiên
dịch Mĩ học tiếp nhận, con đường mà họ lựa chọn là: trước hết dịch những bài giới
thiệu về Mĩ học tiếp nhận và những văn bản lí thuyết riêng lẻ dễ được tiếp nhận
nhất, coi nó như chiếc đũa thử thăm dò phản ứng của giới nghiên cứu. Cho nên, từ
năm 1983 học giả Trung Quốc đã quan tâm đến Mĩ học tiếp nhận, nhưng trong vài
năm tiếp theo chủ yếu chỉ tìm hiểu khái niệm cơ bản, bối cảnh lí luận và tập
trung giới thiệu những bình luận của học giả phương Tây về trường phái lí thuyết
này. Người sớm nhất giới thiệu Mĩ học tiếp nhận ở Trung Quốc là Phùng Hán Tân
và Trương Lê, họ dịch giới thiệu hai bài viết của nhà nghiên cứu người Ý
Meregalli Bàn về Tiếp nhận văn học và
Bút kí Mĩ học tiếp nhận (1983). Người
đầu tiên dịch Mĩ học tiếp nhận ra tiếng Trung là Sầm Dật Thành người Hong Kong,
ông dịch chương 6 cuốn Hoạt động đọc
của Iser và công bố ở Đài Loan. Năm 1985 La Thê Luân dịch tóm tắt bài Khái luận nghiên cứu Mĩ học tiếp nhận của
học giả Tây Đức Grimm, thông qua bài viết này, giới nghiên cứu Trung Quốc sơ bộ
hiểu Mĩ học tiếp nhận là gì, bối cảnh ra đời của nó, thế nào là kinh nghiệm thẩm
mĩ và các vấn đề tranh luận xung quanh Mĩ học tiếp nhận.
Sau
thời kì thăm dò, học giả Trung Quốc phát hiện ra Mĩ học tiếp nhận là một lí
thuyết có giá trị, có thể giải quyết rất nhiều vấn đề của nghiên cứu văn học
trong nước, cho nên họ tiến hành dịch các văn bản biểu hiện bản chất trường
phái này. Năm 1987, Vương Vệ Tân và Chương Châu Phong dịch hai bài viết có tính
chất cương lĩnh của Mĩ học tiếp nhận: Lịch
sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa văn học của Jauss và Kết cấu vẫy gọi của văn học: tính bất định
như là điều kiện sản sinh hiệu quả của văn học của Iser – hai đại diện tiêu
biểu nhất của Mĩ học tiếp nhận. Tiếp theo còn có những bài dịch khác như Độc giả ẩn tàng”(1988) do Chu Lập Nguyên
dịch từ chương 11 của cuốn Độc giả tiềm ẩn.
Những bản dịch lẻ này giúp giới nghiên cứu một lần nữa ý thức rõ hơn về giá trị
của Mĩ học tiếp nhận. Dư luận và nhu cầu trong nước thúc đẩy giới nghiên cứu tiến
tới dịch chuyên luận và tuyển tập. Kim Nguyên Phố và Chu Ninh cùng dịch cuốn Mĩ học tiếp nhận và lí thuyết tiếp nhận
(1987) giới thiệu chuyên luận của Jauss và thành quả nghiên cứu Mĩ học tiếp nhận
của Holub. Chính vì nhu cầu về Mĩ học tiếp nhận trong nước ngày một tăng, dẫn đến
hình huống khá thú vị, đó là gần như đồng thời có 3 nhóm cùng dịch cuốn The act of reading: a theory of aesthetic
response của Iser, năm 1988 xuất bản một cuốn, năm 1991 xuất bản hai cuốn. Aesthetic experience and literary
hermeneutics của Jauss cũng có hai bản dịch. Một số học giả Trung Quốc cho
rằng Mĩ học tiếp nhận Đông Đức là một nhánh của Mĩ học tiếp nhận, cho nên Phạm
Đại Xán dịch Tác phẩm, văn học sử và độc
giả của Nauman. Một loạt tuyển tập liên quan đến Mĩ học tiếp nhận đồng thời
xuất hiện năm 1989, như Lí thuyết tiếp nhận
do Trương Đình Thâm tuyển dịch, Tuyển dịch
Mĩ học tiếp nhận của Lưu Tiểu Phong, Phê
bình phản ứng của người đọc do Lưu Phong tuyển… Đến đây, về cơ bản trước
tác kinh điển của Mĩ học tiếp nhận đã được dịch một cách tương đối toàn diện
sang tiếng Trung, tạo tiền đề tốt cho việc nghiên cứu chung.
Khi đã dịch tương đối toàn diện lí luận
cơ bản, để tiện hơn trong nghiên cứu và tiến hành đối thoại, học giả Trung Quốc
bắt đầu tham khảo các cách nhìn của học giả phương Tây về Mĩ học tiếp nhận nhằm
hạn chế đến mức tối đa xu hướng sùng bái hoặc phê phán một chiều. Ngũ Hiểu Minh
dịch chương 2 cuốn Lí luận văn học phương
tây thế kỉ 20 (1987) của học giả người Anh Terry Eagleton, Thang Vĩnh Khoan
dịch Dẫn luận phê bình phản ứng người đọc
(1987), Ngũ Hiểu Minh dịch Sự phát triển
của lí thuyết tiếp nhận: giải phóng độc giả thực thụ của Elrud Ibsch
(1988), Lưu Phong dịch Từ lịch sử phê
bình nhìn nhận sự đối lập giữa phê bình phản ứng của người đọc và phê bình mới(1989),
Phạm Đại Xán dịch Giản thuật Mĩ học tiếp
nhận của Schober (1992). Các học giả Trung Quốc còn dịch những trước tác lí
luận thời kì sau của hai vị đại diện tiêu biểu của Mĩ học tiếp nhận, như cuốn Hư cấu và tưởng tượng: cương giới của nhân
loại học văn học của Iser (2003), cuốn Kinh
nghiệm thẩm mĩ và giải thích học văn học của Jauss (2006). Có thể nói, đối
diện với Mĩ học tiếp nhận ngoại lai, giới nghiên cứu Trung Quốc đã chọn được một
sách lược dịch rất hợp lí, mang lại cơ sở vững chắc cho công việc nghiên cứu, đối
thoại và vận dụng. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng giải thích vì
sao nghiên cứu và vận dụng Mĩ học tiếp nhận ở Trung Quốc lại thành công như vậy.
2. Trên cơ sở Mĩ học tiếp nhận xây dựng lí thuyết văn học sử mới
Giai đoạn 1950-1970, nghiên cứu văn học
sử ở Trung Quốc chú trọng mục tiêu chính trị, coi nhẹ nghệ thuật và tính thẩm
mĩ tự thân của văn học. Các bộ văn học sử thời kì này đều cùng một mô hình: bối
cảnh lịch sử, tiểu sử nhà văn, nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật. Trong
mô hình như vậy, nhà văn và tác phẩm chiếm vị trí trung tâm, có nghĩa là lịch sử
văn học được tái hiện thông qua việc phác họa về nhà văn, tư tưởng và hình thức
nghệ thuật của tác phẩm văn học, nhân tố chủ quan của người biên soạn bị nhòe mờ.
Trước sự đông cứng của khung biên soạn văn học sử, cuối những năm 80 của thế kỉ
20 và đầu thế kỉ 21 ở Trung Quốc đã có nhiều cuộc thảo luận về lí thuyết văn học
sử và vấn đề biên soạn lịch sử văn học. Cụ thể là chuyên mục Viết lại văn học sử trên tạp chí Văn luận Thượng Hải do Trần Tư Hòa và
Vương Hiểu Minh phụ trách. đầu thế kỉ
21, Chương Bồi Hằng và Trần Tư Hòa lại một lần nữa phát động tranh luận về vấn
đề phân kì văn học sử. Những tranh luận
về viết lại văn học sử đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu lí thuyết
văn học sử của Mĩ học tiếp nhận. Quan điểm văn học sử của Mĩ học tiếp nhận chủ
yếu được thể hiện trong tư tưởng lịch sử tiếp nhận văn học của Jauss. Ông chủ
trương xây dựng lịch sử tiếp nhận văn học dựa trên cơ sở sự tiếp nhận của độc
giả. Ông xem trọng tính lịch sử và tính
thẩm mĩ của văn học, xem trọng độc giả và tính chủ thể của độc giả. Lúc đó, tư
tưởng văn học sử của Mĩ học tiếp nhận có thể bổ sung cho những khuyết thiếu của
mô hình cũ, hình thành lịch sử tiếp nhận văn học ở Trung Quốc.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã tiếp
nhận quan niệm mới về văn học sử trên tinh thần sáng tạo. Họ đã cố gắng điều chỉnh,
bổ sung, giới định, cụ thể hóa lí thuyết ngoại lai để giúp cho nó có thể thích ứng
thực tiễn văn học trong nước. Người góp công rất lớn trong việc này là Chu Lập
Nguyên, Trần Văn Trung, Thượng Học Phong, Cao Trung Phủ… Chu Lập Nguyên cho rằng
văn học sử theo quan điểm của Mĩ học tiếp nhận là sự tương hợp giữa hình thức
thẩm mĩ và hình thức lịch sử, thể hiện kinh nghiệm thẩm mĩ của dân tộc. Từ đó,
ông đề xuất quan điểm: văn học sử bao gồm lịch sử ảnh hưởng, lịch sử tác gia
tác phẩm và lịch sử phê bình văn học. Theo ông, lịch sử tiếp nhận là cầu nối giữa
lịch sử tác gia tác phẩm và lịch sử phê bình[1].
Quan niệm này đã bổ sung cho quan niệm văn học sử vĩ mô của Jauss và dung hòa được
thuộc tính lịch sử và thuộc tính thẩm mĩ. Chu Lập Nguyên đặc biệt chú ý đến lịch
sử kinh nghiệm thẩm mĩ, ông cho rằng lịch
sử kinh nghiệm thẩm mĩ là hạt nhân của lịch sử tiếp nhận. Khi bàn về lịch sử ảnh
hưởng, ông đã tiến hành khảo sát nhà văn mang thân phận là người đọc, sự phê
bình và bình luận cụ thể của nhà phê bình, của nhà văn đối với tác phẩm cụ thể,
từ đó thu được những kết quả rất có giá trị. Trần Văn Trung đã kết hợp được
tính đặc thù của lịch sử văn học cổ đại Trung Quốc với Mĩ học tiếp nhận phương
tây để đề xuất phương pháp nghiên cứu lịch sử tiếp nhận riêng. Ông đặc biệt chú
ý nghiên cứu loại độc giả đặc thù gồm nhà văn và nhà phê bình; chú ý khảo sát ảnh
hưởng của tác phẩm kinh điển và tác gia lớn đối với đời sau[2].
Sùng cổ và sử dụng điển tích điển cố trong văn hóa cổ đại Trung Quốc là một hiện
tượng hết sức phổ biến, cho nên dùng lí thuyết lịch sử hiệu quả để nghiên cứu sẽ
phát hiện ra nhiều điều có lợi đối với nghiên cứu chỉnh thể lịch sử văn học cổ
đại. Rõ ràng, Trần Văn Trung đã có những thay đổi và bổ sung cho tư tưởng lịch
sử tiếp nhận của Jauss mà nổi bật nhất là ông đã cụ thể hóa loại hình độc giả. Tuy
Jauss luôn sử dụng khái niệm độc giả mang nghĩa rộng bao gồm độc giả, nhà văn
chịu ảnh hưởng của nhà văn tiền bối, nhà văn học sử, nhà phê bình, nhưng khi
nghiên cứu sự thay đổi của tầm đón nhận ông lại bỏ qua việc dùng loại hình độc
giả để nghiên cứu lịch sử tiếp nhận văn học. Trần Văn Trung đã phân người tiếp
nhận thơ ca cổ đại Trung Quốc thành người tiếp nhận phổ thông, nhà phê bình thơ
ca và nhà thơ. Thượng Học Phong, Vương Triệu Bằng đã chủ trương phân biệt
nghiên cứu lịch sử tiếp nhận và nghiên cứu so sánh ảnh hưởng. Nghiên cứu ảnh hưởng
của văn học so sánh chú trọng tác gia tác phẩm của thời đại trước đơn hướng ảnh
hưởng đến tác gia thời đại sau hoặc tác gia văn học nước khác, còn nghiên cứu ảnh
hưởng trong Mĩ học tiếp nhận lại chú ý đến quan hệ giao lưu hai chiều giữa tác
phẩm và độc giả đời sau, có nghĩa là chú ý đến sự chủ động tham gia và tự do lựa
chọn văn bản của người đọc[3].
Vương Triệu Bằng lại cho rằng nghiên cứu văn học sử nên nghiên cứu truyền bá và
tiếp nhận. Như vậy, họ đã tiến thêm một bước trong việc cụ thể hóa nội hàm khái
niệm lịch sử tiếp nhận của Jauss. Cao Trung Phủ đề xuất vấn đề điều kiện biên
soạn lịch sử tiếp nhận tác gia tác phẩm nào đó, vì trên thực tế không phải bất
kì tác gia tác phẩm nào cũng có thể nghiên cứu lịch sử tiếp nhận, chỉ có những
tác gia tác phẩm kinh điển mới thực sự tồn tại lịch sử tiếp nhận. Vì thế, một
tác giả tác phẩm nào đó muốn có vĩ độ lịch sử tiếp nhận thì tất yếu phải có sức
sống mãnh liệt và lâu dài, độc giả phải luôn hứng thú với nó[4].
Lý thuyết văn học sử của Jauss thiếu
hệ thống phương pháp có thể thao tác để biên soạn một bộ lịch sử văn học toàn
diện. Vì thế, sau khi điều chỉnh bổ sung cho lí luận lịch sử tiếp nhận, giới
nghiên cứu Trung Quốc đã tiến hành thao tác hóa lí thuyết. Họ đã lấy mô hình giao lưu giữa độc giả và văn bản làm
căn cứ để thay đổi mô hình văn học sử, chú trọng quan hệ hai chiều giữa tầm đón
nhận thẩm mĩ của người đọc và tiềm năng ý nghĩa của văn bản, phân biệt rõ ràng
các phương hướng thay đổi, sau đó chế định các bước thực hiện. Theo quan điểm của
Jauss, mỗi tác phẩm mới đều phải đáp ứng được một số nguyên tắc của tầm đón đợi
thì mới được thời đại tiếp nhận. Nhưng kiệt tác thì lại thường phá vỡ, vượt qua
loại hình quen thuộc trong tầm đón nhận vốn có – phá cũ lập mới. Giữa tác phẩm
và tầm đón nhận của độc giả, giữa đối lập và thống nhất cần phải có khoảng cách
hợp lí, tức là khoảng cách thẩm mĩ không nên quá lớn nếu không tác phẩm sẽ bị cự
tuyệt, nhưng nếu khoảng cách thẩm mĩ quá nhỏ thì cũng sẽ trở thành quá phổ
thông và cuối cùng sẽ bị đào thải; lí tưởng nhất là tác phẩm vừa thỏa mãn một số
yêu cầu của tầm đón nhận của người đọc, vừa phá vỡ vừa làm mới một tầm đón nhận
nào đó. Chu Lập Nguyên đã cụ thể hóa lí luận của Jauss thành mô hình: “Tác phẩm
mới – phá vỡ tầm đón nhận cũ – người đọc xây dựng tầm đón nhận mới – tầm đón nhận
phổ biến hóa, khi tiêu chuẩn thẩm mĩ mới được hình thành, nó lại chuyển thành tầm
đón nhận cũ, tác phẩm mới cũng trở thành tác phẩm cũ – lại xuất hiện tác phẩm mới”[5]. Sự cụ thể hóa thành công
thức này đã mang lại các bước nghiên cứu rõ ràng cho các nhà làm văn học sử,
thuận tiện cho việc vận dụng vào các hiện tượng văn học cụ thể. Vương Vệ Bình
nghiên cứu lịch sử tiếp nhận tám nhà văn văn học hiện đại Trung Quốc, phát hiện
ra quan hệ giữa tiềm năng ý nghĩa của tác phẩm và tầm đón nhận của người đọc
trong mỗi thời kì lịch sử. Vì ở mỗi giai đoạn lịch sử độc giả chịu ảnh hưởng của
chủ lưu tinh thần xã hội khác nhau dẫn đến tầm đón nhận cũng khác nhau, khiến sự
tiếp nhận bình giá của họ cũng thay đổi. Đồng thời, dẫn đến sự tiếp nhận với
thái độ khác nhau cũng do tác phẩm vốn có ý nghĩa phong phú. Như vậy, nắm được
quan hệ giữa văn bản và tầm đón đợi của người đọc có thể lí giải được diện mạo
văn học sử[6].
Trong văn học cổ đại Trung Quốc tính kế thừa lại lớn hơn
tính đột phá, vì thế nếu Jauss nhấn mạnh sự đối lập giữa tác phẩm mới và tầm
đón nhận cũ của người đọc thì học giả Trung Quốc lại thiên về tính thống nhất,
họ ra sức thúc đẩy nghiên cứu ảnh hưởng. Mặc dù Jauss không đặt vấn đề nhà văn
đồng thời cũng là độc giả vào vị trí nổi bật trong hệ thống lí thuyết của mình,
nhưng khi Mĩ học tiếp nhận vào Trung Quốc thì vấn đề này lại chiếm vị trí hạt
nhân. Thời cổ đại, hiện tượng người đọc lí tưởng đồng thời là nhà văn rất phổ
biến. Lưu Hồng Bân phát hiện ra sáng tác của Tào Tuyết Cần, Thi Nại Am, La Quán
Trung, Ngô Thừa Ân… có chịu ảnh hưởng của mô hình chân –giả trong xây dựng nhân vật của các nhà văn tiền bối. Học giả
Trung Quốc cũng ý thức được quan hệ giữa tác phẩm đời trước và độc giả đời sau
không chỉ là đơn hướng. Sự tiếp nhận, đánh giá cao hoặc thái độ lạnh nhạt của
người đọc cũng sẽ ảnh hưởng đến vị trí của tác phẩm và nhà văn thời đại trước. Nhà
văn vừa là người sáng tác vừa là người tiếp nhận, sự song trùng thân phận này ảnh
hưởng lớn đến toàn bộ lịch sử tiếp nhận văn học. Vì hiện tượng dụng điển, mô phỏng
cổ nhân là rất phổ biến trong văn học cổ đại Trung Quốc, cho nên nghiên cứu sự
tiếp nhận của nhà văn với tư cách là một loại độc giả đặc thù trở thành nét đặc
sắc trong nghiên cứu văn học sử Trung Quốc.
Học giả Trung Quốc cũng chú ý vận dụng lí thuyết
đồng đại và lịch đại của Jauss để khắc phục sự phân tích độc lập, tĩnh tại đối
với tác phẩm nhà văn. Đối với nghiên cứu văn học sử, phương pháp này rất quan
trọng, vì nếu chỉ khảo sát đồng đại thì chỉ có thể phát hiện ra diện mạo cố định
của văn học. Trong khi đó, mỗi giai đoạn, trong mỗi tình huống đọc đặc thù, mỗi
khi tâm lí xuất hiện động thái mới, tác phẩm văn học đều có diện mạo mới. Tìm
được công cụ để giải quyết vấn đề này mới có thể khiến văn học sử khai phá giai
đoạn mới. Xuất phát từ góc độ này, Vương Vệ Bình, Trần Phúc thăng, Cao Nhật
Huy, Hồng Ứng đã thu được thành tựu rất lớn.
Như vậy, bên cạnh việc giới định, điều
chỉnh, bổ sung, giới nghiên cứu Trung Quốc đã tìm cách thao tác hóa lí thuyết
văn học sử của Jauss, họ cho rằng ngay lập tức biên soạn một bộ lịch sử văn học
mang tính chỉnh thể toàn diện là điều không thể, cho nên trước tiên nên biên soạn
lịch sử tiếp nhận những tác gia tác phẩm kinh điển; tiếp theo sẽ biên soạn lịch
sử tiếp nhận thể loại; cuối cùng mới có thể biên soạn được một bộ lịch sử tiếp
nhận văn học mang tính chỉnh thể và toàn diện. Sách lược này đã mang lại những
thành công nhất định, biểu hiện cụ thể là đã có không ít công trình về lịch sử
tiếp nhận những tác phẩm kinh điển ra đời, như Lịch sử tiếp nhận Hồng Lâu Mộng, Lịch sử tiếp nhận Thủy Hử…; cũng
có không ít sách về lịch sử tiếp nhận thơ ca của tác gia kinh điển, như Lịch sử tiếp nhận thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô
Đông Pha…; lịch sử tiếp nhận một thể loại, như Lịch sử tiếp nhận thơ Đường, Lịch sử tiếp nhận từ Tống…; hơn nữa,
giới nghiên cứu còn biên soạn lịch sử tiếp nhận văn học cổ đại, văn học hiện đại.
Có thể nói, đây là những thành tựu cụ thể nhất trong nghiên cứu vận dụng Mĩ học
tiếp nhận của giới nghiên cứu Trung Quốc.
Các nhà nghiên cứu
Trung Quốc không hoàn toàn sùng bái, ca ngợi một chiều, họ đã chỉ ra những hạn
chế của Mĩ học tiếp nhận: Mĩ học tiếp nhận đã coi nhẹ tính chủ thể của nhà văn,
che lấp giá trị và ý nghĩa của sáng tác[7]; tầm đón nhận và mô hình lịch
sử tiếp nhận quá ỷ lại vào kinh nghiệm thẩm mĩ của tác giả mà coi nhẹ tính
khách quan của ý nghĩa và tiêu chuẩn giá trị thẩm mĩ của văn học[8]; Sự lí giải của Jauss về độc
giả thiên sang vĩ mô và thiếu ý thức về cơ sở xã hội của người đọc[9]. Quá nhấn mạnh tính đối lập
giữa tầm đón nhận của người đọc, mở rộng ý nghĩa phủ định hiện thực[10]. Chính vì phát hiện ra hạn
chế trong lí luận của Jauss cho nên học giả Trung Quốc trong quá trình vận dụng
đã phân biệt, bổ sung, cải tạo làm cho nó thích hợp với thực tiễn phát triển của
văn học. Như vậy có thể thấy, Mĩ học tiếp nhận đến Trung Quốc không phải mở ra
một lĩnh vực hoàn toàn mới, mà nhiều hơn là mang đến cho giới nghiên cứu Trung
Quốc phương pháp luận có tính khai mở.
3. Xây dựng lí luận tiếp nhận văn học mang màu sắc
Trung Quốc
Nửa sau thế kỉ 20, giới nghiên cứu văn học Trung Quốc
phát hiện hiện tượng “thất ngữ”, “tây hóa toàn bộ” trong lí luận văn học Trung
Quốc. Họ nhận ra rằng muốn xây dựng nền lí luận văn học mang màu sắc Trung Quốc
và có thể đối thoại được với phương Tây thì cần phải kết hợp lí thuyết ngoại lai với việc chỉnh lí, diễn
giải mới về lí luận truyền thống, xây dựng diễn ngôn riêng. Đối với Mĩ học tiếp
nhận, họ chủ trương vận dụng lí thuyết này nhìn lại toàn bộ hệ thống lí luận tiếp
nhận truyền thống, xây dựng hệ thống lí luận vừa truyền thống vừa hiện đại mang
màu sắc Trung Quốc.
Từ góc độ Mĩ học
tiếp nhận giới nghiên cứu Trung Quốc tiến hành giải thích lại một số phạm trù thi
học cổ điển như ý cảnh, thi ngôn chí, dĩ
ý nghịch chí, thi vô đạt hỗ, phát hiện ra ý nghĩa lí luận tiếp nhận trong
đó. Đồng thời tiến hành khám phá lí luận tiếp nhận của Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long, của Chung Vinh trong Thi phẩm, giải thích các phạm trù thi học
có ý nghĩa tiếp nhận của Vương Phu Chi và phép bình điểm của Kim Thánh Thán. Khảo
sát các phạm trù lí luận từ thời tiên Tần đến Minh Thanh, họ thấy rằng người
xưa đã ý thức ngày càng sâu sắc và tự giác hơn trong lí luận thưởng thức, tiếp
nhận văn học. Từ đó, học giả Trung Quốc
chỉ ra những
đặc trưng cơ bản của lí luận tiếp nhận văn học Trung Quốc.
Từ
góc độ văn bản, có thể thấy ý thức tiếp
nhận của người Trung Quốc xưa không tập trung thành những chuyên luận mà tản mạn
ở các văn bản như thi thoại, từ thoại,
văn thoại, khúc thoại, tuyển bản, bình điểm, tập chú… Người Trung Quốc thích “chạm đến là dừng”, thích lời
ít ý nhiều chứ không thích trường thiên đại luận. Trong
những văn bản tiếp nhận này ẩn tàng kinh nghiệm thẩm mĩ của người tiếp nhận
trong các thời đại khác nhau. Trần Văn Trung chú ý đến bình luận thơ, tuyển tập
thơ, đặc biệt là những tuyển tập thơ các thời đại khác nhau[11].
Bình điểm là phương thức độc giả thể hiện ý thức tiếp nhận, trong quá trình đọc
này, ba nhân tố nhà văn, bình điểm, độc giả có ảnh hưởng lẫn nhau. Đây chính là
hiện tượng đặc thù trong tiếp nhận tiểu thuyết ở Trung Quốc cổ đại[12].
Từ đặc trưng phương pháp tư duy tiếp nhận, các nhà nghiên
cứu thấy rằng người xưa nhấn mạnh trực giác và cảm ngộ khi nắm bắt đối tượng. Họ
đặc biệt chú trọng phát triển lí thuyết “vị”. “Vị” trong phương pháp thưởng thức
phê bình cổ đại thể hiện rõ tư duy biện chứng coi văn bản và người đọc là một
chỉnh thể. Loại diễn ngôn này gọi là “phê bình điểm ngộ” hoặc là
“thần ngộ trực quan” hoặc là “phê bình ý tượng”[13]. Trung Quốc có lí luận đọc của mình đó
là thuyết xuất - nhập. Trên thực tế đó
là sự kết hợp giữa coi trọng thưởng thức văn học thể nghiệm bên trong (nhập) và
phê bình văn học phản ánh bên ngoài (xuất), cũng có thể đã thực hiện sự thống
nhất giữa tiếp nhận văn học và kinh nghiệm sống của người đọc[14]. Phong
cách tiếp nhận cũng rất đặc biệt, khi tiếp nhận văn bản, cá nhân có thể tùy ý
thay đổi nguyên tác, đồng thời tiếp nhận thiếu tính logic, thiếu tính hệ thống.
Khi tiếp nhận, người Trung Quốc cổ đại coi trọng tính thể nghiệm và tính thưởng
thức. Người tiếp nhận vừa là nhà văn ưu tú và là độc giả ưu tú, cho nên họ thường
dùng kinh nghiệm sáng tác phong phú để tiến hành bình điểm, và dựa vào kinh
nghiệm phê bình để thúc đẩy năng lực sáng tác. Cứ thế tạo thành hiện tượng đặc
thù thẩm thấu lẫn nhau giữa sáng tác và tiếp nhận trong lịch sử.
Từ góc độ chuẩn giá trị, người Trung Quốc cổ đại coi phẩm chất của tác phẩm
có liên quan đến phẩm chất của người sáng tác, thể hiện khuynh hướng luân lí đạo
đức trong phê bình văn học. Lý Kiếm Phong phát hiện ra người xưa thường phá vỡ
ranh giới giữa tác giả và tác phẩm, đồng hóa tác phẩm và nhân phẩm. Khuynh hướng
này có lúc dẫn tới trong phê bình văn học coi trọng thước đo luân lí đạo đức,
coi nhẹ tiêu chuẩn thẩm mĩ, thậm chí hình thành mô hình phê bình “dùng luân lí
đạo đức bình luận thơ ca”[15].
Trong tiếp nhận văn học truyền thống Trung Quốc, hành vi
dụng điển và phỏng tác rất phổ biến. Vấn đề này có tính hai mặt, một mặt nó làm
cho ảnh hưởng của người trước rộng hơn,
mặt khác, người đời sau thông qua mô phỏng người trước có thể trực tiếp mượn tư
tưởng nghệ thuật và bút pháp nghệ thuật, dần dần hình thành phong cách sáng tác
của riêng mình. Ngoài ra, vì chịu ảnh hưởng quan niệm sử kí, có nhiều người lấy
sử bình thơ, coi bình luận thơ ca trở thành bình luận lịch sử, thoát li hạt
nhân thẩm mĩ của văn học. Vương Mai cho rằng quan niệm này khiến người đọc khi
tiếp nhận tác phẩm văn học thường liên kết giữa nội dung tác phẩm với sự thực
các thời đại khác nhau và trải nghiệm của nhà văn, dùng sự thực lịch sử làm
tiêu chí phân biệt chân giả, tìm kiếm dấu tích của sự kiện lịch sử trong tác phẩm
văn học[16].
Từ góc độ chủ thể tiếp nhận, giới nghiên cứu
Trung Quốc phát hiện ra người xưa coi trọng thông qua tu dưỡng bản thân mở rộng
tầm đón đợi thẩm mĩ. Tu dưỡng tâm thái, tu dưỡng nghệ thuật và kinh nghiệm đọc
tạo thành điều kiện chủ thể của độc giả. Người xưa nhấn mạnh chủ thể tiếp nhận
phải có tâm thái hư tĩnh, thái độ thẩm mĩ bình lặng ngưng thần. Từ năng lực
phán đoán thẩm mĩ của Kant đến khoảng cách tâm lí của Edward Bullongh, rồi đến
tầm đón đợi của Jauss và người đọc tiềm ẩn của Iser, lí luận phương tây đều chủ
trương chủ thể tiếp nhận dùng thái độ thẩm mĩ phi công lợi để đối xử với văn bản,
nhưng lí luận phương tây không nghiên cứu làm thế nào để bồi dưỡng thái độ thẩm
mĩ. Sở Bảo Anh cho rằng Trung Quốc cổ đại có không ít thành tựu trong nghiên cứu
về tâm thái hư tĩnh, đặc biệt là đạo giáo[17].
Các học
giả Trung Quốc cũng truy tìm nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt giữa lí luận tiếp
nhận Trung Quốc và phương tây từ trong cội nguồn văn hóa, tâm lí truyền thống,
tư tưởng triết học và quan niệm giá trị. Hoạt động tiếp nhận lí tưởng và phương
thức nghiên cứu lí tưởng của Mĩ học tiếp nhận là lấy phân tích lí tính làm chủ,
còn phương thức tiếp nhận lí tưởng của Trung Quốc cổ đại lại là cảm tính tổng hợp.
Trung Quốc cổ đại coi tiếp nhận văn học là cảm ngộ trực quan và thể nghiệm chỉnh
thể. Mĩ học tiếp nhận dùng ngữ thể phê bình tiếp nhận được lí luận hóa, Trung
Quốc cổ đại lại dùng ngữ thể phê bình văn học hóa. Điều này có nguồn gốc từ
quan niệm “thiên nhân tương phân” của phương Tây và quan niệm “thiên nhân hợp
nhất” của Trung Quốc. Phương tây thường coi văn học là đối tượng của phân tích
lí tính, chú ý đến tư duy logic biện chứng, vì thế, trên phương diện chỉnh thể,
lí luận phương tây dùng tri thức luận làm cơ sở, thường mang khuynh hướng chủ nghĩa khoa học,
còn Trung Quốc lại thường coi văn học là sự giao lưu với một chủ thể khác, đồng
thời coi hoạt động tiếp nhận là hoạt động của người và người, người và tự nhiên
hợp nhất. Vì thế, người Trung Quốc cổ đại thường lấy nhân sinh luận làm cơ sở,
mang đậm tinh thần nhân văn. Tinh thần truyền thống của phương Tây lại thiên
sang lí tính, còn phương Đông lại dùng “đạo” để biểu hiện trí tuệ triết học và
ngộ tính triết học.
Kết
luận
Trong lịch trình hơn 30 năm ở Trung
Quốc, Mĩ học tiếp nhận đã có một diện mạo riêng. Giới nghiên cứu văn học Trung
Quốc đã có sách lược hợp lí trong việc tiếp nhận lí thuyết này. Họ không chỉ dịch
giới thiệu một cách toàn diện, mà còn tiếp nhận trên tinh thần sáng tạo, tinh
thần phê phán, tiến hành điều chỉnh, bổ sung, giới định và thao tác hóa lí thuyết,
tạo tiền đề cho việc ứng dụng vào thực tiễn văn học trong nước, mà cụ thể là ứng
dụng nghiên cứu và biên soạn văn học sử, nghiên cứu lí luận tiếp nhận truyền thống
và ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu các hiện tượng văn hóa văn học nghệ thuật.
/.
Busan, 18-10-2015
(Bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số tháng 2 năm 2016)
Chú
thích
[1]
Chu
Lập Nguyên , Mĩ học
tiếp nhận, nxb Nhân dân Thượng Hải, 1989, tr 361
[2]
Trần Văn Trung,
Nghiên cứu lịch sử tiếp
nhận thơ ca cổ điển Trung Quốc, Nxb Đại học An Huy, 1998, tr 9-29)
[3]
Thượng Học Phong…,
Lịch sử tiếp nhận văn
học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục Sơn Đông, 2000, tr2
[4]
Cao Trung Phủ,
Lịch sử tiếp nhận Gơt,
(1773
一1945), Nxb Văn hiến khoa học xã hội,
1993, tr1
[5]
Chu Lập Nguyên, sđd, tr345
[6]
Vương Vệ Bình,
Mĩ học tiếp nhận và văn học
hiện đại Trung Quốc, Nxb Giáo dục Cát lâm, 1994, tr88-118
[7]
Ôn Phan Á,
Quan sát lịch sử hiệu quả
trong sự dung hợp tầm đón đợi, Tạp chí Hà Bắc, số 4, năm 2006, tr126
[8]
Khấu Bằng Trình,
Bàn về hạn chế căn bản của
Mĩ học tiếp nhận, Tạp chí khoa học trường Đại học Thâm Quyến, số 3 năm 1999
[9]
Ôn Phan Á, sđd, tr 126
[10]
Vương Lệ Lệ,
Văn học sử: một vấn đề chưa
hoàn thành – nhìn lại triết học văn học sử của Jauss, Tạp chí khoa học Đại
học Bắc Kinh, số 1 năm 1994, tr62
[12]
Cao Nhật Huy, Hồng Ứng,
Lịch sử tiếp nhận
Thủy Hử, Nxb Tề Lỗ, 2006, tr12
[13]
Trần Văn Trung, sđd, tr 42-43
[14]
Long Hiệp Đào,
Nghiên cứu về đọc văn học,
Nxb Đại học Bắc Kinh, 2004 tr300-308
[15]
Vương Mai,
Lịch sử tiếp nhận văn học Kiến
An, Nxb Đại học Sư phạm Phúc Kiến, 2002
[17]Sở
Bảo Anh, Sáng tác và tiếp nhận văn học cổ đại Trung Quốc, Nxb Đại học Dầu khí,
1997, tr 281-295
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét