“Vấn đề chủ chốt hiện nay trong phát triển
lí luận văn học”)
Lời người dịch:
Việt Nam và Trung Quốc trong sự phát triển văn hóa xã hội nói
chung, lí luận văn học nói riêng có nhiều nét tương đồng, tuy nhiên, từ sau cải
cách mở cửa 1979 , lí luận văn học Trung Quốc có những bước đột phá ngoài sức
tưởng tượng, họ có cả một chiến lược dịch thuật tinh hoa lí luận nước ngoài, và
đến cuối thập niên 90, về cơ bản những lí thuyết văn học của phương Tây hiện
đương đại đều được dịch và nghiên cứu tại Trung Quốc. Thế nhưng họ cũng vấp phải
không ít những khó khăn cần phải khắc phục. Hội thảo này ít nhiều đã nói lên những
điểm “nóng” trong nghiên cứu lí luận văn học ở Trung Quốc hiện nay. Qua những
thông tin này, người dịch hi vọng độc giả Việt Nam cùng nghiền ngẫm về những vấn
đề của nghiên cứu lí luận văn học trong nước.
Từ ngày 22 đến ngày 24
tháng 6 năm 2012, Hội thảo toàn quốc về “Vấn đề chủ chốt hiện nay trong phát
triển lí luận văn học” do Viện Văn học và Báo chí Đại học Tương Đàm kết hợp với
Viện văn học và Truyền thông Báo chí Đại học Cát Thủ đã diễn ra thành công tốt
đẹp. Đến dự có 30 chuyên gia đến từ 10 trường đại học như Đại học Nam Kinh, Đại
học Tề Nam, Đại học Tương Đàm, Đại học Cát Thủ, Đại học Tây Nam, Đại học Sư phạm
Hồ Nam, đại học Trùng Khánh, Đại học Khoa học Kĩ thuật Hồ Nam, Đại học Sư phạm
Quý Châu và Viện giáo dục Tô Châu…, các học giả đã thảo luận sôi nổi xoay quanh
vấn đề những hiện tượng nổi bật trong phát triển lí luận văn học và nhìn lại việc
xây dựng hệ thống tri thức văn nghệ học.
1.
Hiện tượng nổi bật trong lí
luận văn học
Từ những năm 80 của thế kỉ
20 cho đến nay, dưới sự ảnh hưởng của phương Tây, giới lí luận văn học Trung Quốc
đổ xô nghiên cứu Chủ nghĩa hiện sinh, Phân tâm học, Mĩ học tiếp nhận, Chủ nghĩa
cấu trúc…, khiến không ít người phải than vãn về tình trạng “thất ngữ” của lí
luận văn học nước nhà. Hiện nay, trong điều kiện toàn cầu hóa ảnh hưởng ngày một
sâu rộng, sự phát triển của lí luận văn học càng cần có một cái nhìn quốc tế, vì
chỉ có tích cực thâm nhập vào vấn đề học thuật mang tính toàn cầu đang được
quan tâm thì mới có thể trực tiếp tiến hành đối thoại với phương Tây, mới có thể
thoát khỏi sự bế tắc do lí luận đơn thuần tạo ra, từ đó mới có thể xây dựng được
cơ sở vững chắc cho cách tân lí luận và hướng ra thế giới bên ngoài. Chu Hiến
(Đại học Nam Khai) đã điểm qua những vấn đề trọng điểm của lí luận phương Tây.
Ông xuất phát từ quan điểm của nhà lí luận uy tín Jonathan Culler, cho rằng hiện
nay các vấn đề mà giới học thuật phương Tây quan tâm là: Tự sự học, Jacques
Derrida, Chuyển hướng luân lí học, Phê bình sinh thái, Lí luận hậu nhân loại,
trở lại với mĩ học…Theo ông, Tự sự học can thiệp sâu rộng vào khoa học, đặc biệt
là kết hợp với kĩ thuật thông tin, có thể đem điện ảnh, truyền hình… dung nhập
vào phạm vi nghiên cứu, từ đó giải quyết hạn chế của Tự sự học truyền thống, mở
ra không gian phát triển to lớn; khi mà Foucault và Lacan đang dần bị đẩy ra
bên lề thì nhà nghiên cứu Hậu hiện đại Jacques Derrida đã dần dần chiếm vị trí
trung tâm; chuyển hướng Luân lí học đã làm lật đổ hàng loạt các đối lập nhị
nguyên trong cuộc sống, mang đến những vấn đề nghiên cứu thú vị, như chính trị
văn hóa trong nghiên cứu văn học, đọc lại kinh điển, quan tâm đến quan hệ giữa
con người và tự nhiên, xã hội…; cùng với sự nhức nhối của vấn đề sinh thái và vấn
đề nhìn nhận lại Chủ nghĩa nhân loại trung tâm luận, sự hưng khởi của Mĩ học
sinh thái không còn nghi ngờ gì nữa đã mở rộng lĩnh vực nghiên cứu của lí luận
văn học; “phạm trù trang trí”[1] do sự phát triển của kĩ
thuật tạo nên đã làm thay đổi trí tuệ, hành vi, nhận thức của con người, khiến
con người bước vào thời kì “hậu nhân loại”[2], lí luận “hậu nhân loại”
sẽ có một không gian nghiên cứu rộng lớn; cùng với sự phát triển của chủ nghĩa
hình thức mới và chủ nghĩa duy mĩ mới, quay trở lại với mĩ học cũng trở thành một
trào lưu đáng lưu ý. Chu Vận (Viện giáo dục Giang Tô) xuất phát từ lí luận sản
xuất văn hóa của Bourdieu tiến hành nhìn lại quan hệ phức tạp của phái Tiền
phong và thị trường, nhấn mạnh sự cách tân của phái Tiền Phong, một mặt bao hàm
phê phán và phủ định chế độ hóa và thương phẩm hóa nghệ thuật, biểu hiện cụ thể
là lập trường cấp tiến phản thị trường, phản đại chúng; mặt khác nó lại tồn tại
cùng với nguyên tắc vận hành của thị trường. Chu Kế Võ (Đại học Nam Kinh) tiến
hành phân tích tác phẩm nổi tiếng “Kết thúc của nghệ thuật” của nhà phê bình
nghệ thuật người Mĩ Arthur Danto, cho rằng “Kết thúc của nghệ thuật” là sự khái
quát về giai đoạn phát triển của nghệ thuật phương Tây trên ý nghĩa bản thể luận,
kế thừa những tư tưởng nghệ thuật và triết học của nhiều học giả khác. Chu Kế
Võ cho rằng thông qua phân tích vấn đề cơ bản và manh mối hình thành của vấn đề
này sẽ nảy sinh các tư tưởng mới về vấn đề nghệ thuật làm tiền đề cho giải
thích các vấn đề nghệ thuật. Dương Hướng Vinh (Đại học Tương Đàm) tiến hành giải
phẫu sự cấu thành ý nghĩa của vấn đề “thời thượng” trong lĩnh vực luân lí xã hội,
cho rằng từ lâu trong lí luận về “thời thượng”, “thời thượng” được coi là biểu
trưng cho phẩm vị giai cấp, là sự xác lập thân phận cá nhân, thể hiện chức năng
phân biệt giai cấp. Nhưng lí luận thời thượng sau này, trên cơ sở xây dựng cấu
trúc chức năng xã hội, lại muốn cải chính cấu thành chức năng phân biệt giai cấp
của “thời thượng”, nhấn mạnh cấu thành ý nghĩa chức năng lựa chọn của tập thể
thời thượng. Trong xã hội hiện đại, “thời thượng” thể hiện một đặc trưng quan
trọng của tính hiện đại thẩm mĩ: “tính tạm thời” hoặc “cảm giác hiện tại” của
cuộc sống, nhưng sự theo đuổi cái tân kì của “thời thượng” lại thể hiện ra một
nghịch lí: trong cấu thành tự ngã của thời thượng có xu hướng giải cấu tự ngã.
Ngoài ra, dựa theo giải thích thẩm mĩ của Kant để nhìn nhận vấn đề “thời thượng”,
ý nghĩa mang tính hiện đại thẩm mĩ mà “thời thượng” cấu thành còn thông qua nới
rộng cự li với đời sống để thực hiện sự lật đổ đời sống bình lặng thường ngày,
tiến đến cứu rỗi thẩm mĩ cho cá thể. Lưu Trung Vọng (Đại học Tương Đàm) lấy
nghiên cứu của Cù Thu Bạch làm ví dụ, cho rằng gần 10 năm nay trong nước và
ngoài nước từ văn hóa cánh tả, tiến trình tư tưởng Trung Quốc, lí luận nước
ngoài… đã sâu sắc hóa nghiên cứu tư tưởng văn nghệ của Cù Thu Bạch, nhưng hiện
nay nếu sử dụng cách nhìn liên ngành, nghiên cứu chỉnh thể, so sánh…thì đối với
tư tưởng của ông vẫn còn không gian rộng lớn để nghiên cứu. Đỗ An (Đại học Sư
phạm Quý Châu) tiến hành phân tích lí luận tính chủ thể của Nietzche và chủ
nghĩa hậu hiện đại, nhấn mạnh rằng trong tư tưởng của Nietzche, chủ thể là sản
phẩm của ý chí quyền lực, gợi ý cho tư tưởng hậu hiện đại dùng Phổ hệ học thay
thế bản thể luận, lấy mô hình sự khác biệt của lực học thay thế mô hình thống
nhất siêu hình học. “Chủ nghĩa góc nhìn” của Nietzche đã loại bỏ “mô hình độ sâu”,
phản đối “đại tự sự”, mang đến vũ khí phương pháp luận nhằm giải phẫu và khám
phá chủ thể cho những nhà hậu hiện đại. Nietzche kết hợp phê phán tính chủ thể
với phê phá tính hiện đại, mang đến cho lí luận phê phán chủ thể hiện đại và hậu
hiện đại hai mô hình phê phán.
2.
Nhìn lại cấu thành tri thức
văn nghệ học
Sang thế kỉ mới, cùng với
sự hưng khởi của nghiên cứu văn hóa, một loạt các mệnh đề khoa học liên ngành
đã trở thành điểm “nóng” của giới văn nghệ học, trong văn nghệ học dần dần xuất
hiện xu hướng mở rộng biên giới và mở rộng khoa học. Cùng với sự ngoại biên hóa
của văn học, sự hưng thịnh của văn hóa đại chúng, sự phát triển của lí luận văn
học hiện nay sẽ đi về đâu khi phải phải đối mặt với nghiên cứu chuyển hướng văn
hóa? Làm thế nào để vẽ lại bản đồ khoa học văn nghệ học trong điều kiện khuếch
trương của khoa học? Trước mắt, lối thoát trong cấu thành tri thức văn nghệ học
là gì? Những vấn đề này cũng là chủ đề quan trọng của hội thảo. Lý Thủy Hà (Đại
học Tương Đàm) xuất phát từ lí luận văn học chủ nghĩa Mác cho rằng những phạm
trù như toàn cầu hóa, tính hiện đại, phê phán văn hóa… đã mở rộng nghiên cứu lí
luận văn học Mác xít, nghiên cứu văn học trong tình thế mới vừa phải làm mới phạm
trù truyền thống, vừa phải khám phá ra phạm trù mới, như vậy mới có thể kích hoạt
sinh mệnh của lí luận quá khứ, thúc đẩy sự phát triển của lí luận văn học. Triệu
Tịnh Dung (Đại học Tề Nam) lại kết hợp kinh nghiệm thực tập sinh tại Mĩ của
mình, từ tầng diện phương pháp nghiên cứu nhấn mạnh nghiên cứu lí luận văn học
cần phải dựa vào triển khai văn bản chứ không được bàn vo về lí luận; cần phải
tích cực thâm nhập vào đời sống chứ không được bàng quan đứng ngoài; phương thức
tư duy cần phải đa dạng tránh cứng nhắc; cần phải xuất phát từ tình hình trong
nước chứ không chỉ đơn thuần theo đuổi phương Tây. Âu Dương Hữu Quyền (Đại học
Trung Nam) cho rằng sự giảm bớt của đội ngũ nghiên cứu văn học truyền thống, sự
bất cập của thể chế học thuật, đặc biệt là sự hưng thịnh của văn học số… khiến
nghiên cứu văn học hiện nay đứng trước nguy cơ trùng trùng. Văn nghệ học phải
chuyển đổi là điều tất nhiên, không chỉ cần mở rộng biên giới khoa học, kết hợp
văn học và cuộc sống, phi văn học và các khoa học khác; còn cần phải tiến hành
làm mới học thuật, cả phạm trù khái niệm lẫn mệnh đề lí luận đều phải biến đổi
theo thời đại; còn cần phải làm mới hơn ý thức học thuật, tích cực ứng phó với
hiện thực văn học mới. Tiếu Vĩ Thắng (Đại học Tây Nam) nhấn mạnh sự quan tâm
quá mức của nghiên cứu văn học đối với hình thái ý thức, chính trị đã làm mất
đi sự mẫn cảm nghệ thuật, ông lấy vấn đề thân phận làm ví dụ, cho rằng quan hệ
giữa người và động vật, người và kĩ thuật có thể làm thay đổi kết cấu tâm trí của
con người, đồng thời cũng làm thay đổi vấn đề thân phận. Ông chỉ ra, sự phát
triển của lí luận văn học hiện nay nên chú trọng tính liên ngành, không thể chỉ
hạn chế ở trong khung lí luận văn học truyền thống. Vương Hữu Lượng (Đại học Sư
phạm Trùng Khánh) lấy “Phê bình mới” làm làm ví dụ phân tích ba chiều tồn tại
trong lí luận văn học, cho rằng cách hiểu của giới lí luận văn học Trung Quốc đối
với lí luận văn học có một khuynh hướng là “đơn thuần hóa”, chỉ lí giải và nắm
bắt lí luận văn học trên tầng quan niệm. Khuynh hướng này kìm hãm sự cách tân
lí luận và sự ra đời của lí luận, và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng và
trình độ của chúng ta trong việc tiếp thu lí luận phương Tây. Vương Hữu Lượng lấy
phê bình mới Anh Mĩ làm ví dụ, nhấn mạnh lí luận văn học không phải là một chiều
đơn chất, mà là không gian ba chiều, như chiều quan niệm, chiều phương pháp,
chiều vấn đề. Chỉ nhận thức được tính đa chiều của lí luận văn học thì mới có
giá trị cho việc tiếp thu lí luận, sản sinh lí luận và đổi mới lí luận. Lý Thắng
Thanh (Đại học Khoa học Kĩ thuật Hồ Nam) trước thực trạng nghiên cứu văn nghệ học
quá coi trọng nghiên cứu Tri thức luận, không chú trọng nghiên cứu Giá trị luận
đã đề xuất nên phát triển nghiên cứu văn học chú trọng đến con người, chú ý đến
đời sống hiện thực. Đồng Cường (Đại học Nam Kinh) xuất phát từ sự phân biệt giữa
lí luận văn học Trung Quốc và phương Tây, đề xuất nghiên cứu lí luận văn nghệ
nên coi trọng tính kế thừa lịch sử của lí luận và nên kết hợp lí luận với đối
tượng nghiên cứu cụ thể. Lưu Hàm (Đại học Cát Lâm) cho rằng sự giải thích của
con người đối với thế giới khiến lí luận văn nghệ ra đời, nhưng lí luận lại có
sự kích động, thăng hoa lên thành cái phổ quát đã dẫn đến thần thoại hóa lí luận,
mà thần thoại hóa lí luận thì sẽ rất dễ thoát li hiện thực, vì thế cần phải
không ngừng điều chỉnh lí luận, làm mới sự phát triển của nó. Vương Viên Ba (Đại
học Tương Đàm) cho rằng, sự phát triển của lí luận văn học hiện nay cần tích cực
xâm nhập vào thực tiễn văn hóa thường nhật, mà điện ảnh vừa kết hợp được nhiều
nhân tố của các ngành nghệ thuật khác, như tiểu thuyết, kịch, mĩ thuật, âm nhạc…
vừa là hoạt động thương mại triệt để; vừa trực tiếp liên hệ với xã hội, lịch sử,
văn hóa, chế độ, hình thái ý thức… vừa quan hệ mật thiết với đời sống thường nhật
của mỗi cá thể./.
Đỗ Văn Hiểu
(Dịch từ tiếng Trung, Theo
Tạp chí khoa học Đại học Khoa học Kĩ thuật Hồ Nam, chuyên san về Khoa học xã hội,
số 6 năm 2012, trang 184-185)
Chú thích
[1]Vấn đề thông tin kĩ thuật là vấn đề quan trọng liên quan đến sự phát triển
của xã hội loài người. Nhà triết học kĩ thuật Albert Borgmann từ góc độ triết học đã rất quan tâm đến hiện tượng siêu hiện thực
mà thông tin kĩ thuật mang lại, phân thông tin thành ba loại hình khác nhau là thông
tin tự nhiên, thông tin văn hóa, thông tin kĩ thuật, giải thích ba loại quan hệ
giữa các loại hình thông tin với hiện thực (ĐVH)
[2]“Hậu
nhân loại” là giả tưởng của con người trong xã hội hiện đại về nhân loại trong
tương lai, nó thể hiện một quan niệm giá trị liên quan đến tương lai của nhân
loại. Hậu nhân loại được giả tưởng thành thể kết hợp giữa cơ thể con người và
máy móc, bộ não con người và máy tính, nó có thể là người máy, có thể là phần mềm,
cũng có thể là trạng thái thông tin (ĐVH)
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét