Bài
viết này dành một phần xác định thế nào là một hiện tượng văn học bị đẩy ra bên
lề không gian văn hóa, văn học; tiếp đó tái hiện tình trạng từ vị trí trung tâm
chuyển sang vị trí ngoại biên của thơ ca đương đại Trung Quốc, đồng thời lí giải
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đó từ bối cảnh văn hóa xã hội, chính trị, người
tiếp nhận và từ chính bản chất của thơ.
1. Vấn
đề trung tâm – ngoại biên của văn hóa, văn học
Dường như
trong mỗi thời kì xã hội có sự biến động mạnh mẽ thì vấn đề “trung tâm – ngoại
biên” lại được đặt ra. Hiện tượng văn hóa văn học chiếm vị trí trung tâm là hiện
tượng được phần lớn xã hội ủng hộ, đông đảo người sáng tạo lẫn người tiếp nhận
hưởng ứng, trở thành một thứ “quyền lực” có phạm vi ảnh hưởng sâu rộng không chỉ
đến công chúng, xã hội, mà còn ảnh đến các hiện tượng khác trong một hệ thống,
có thể đại diện tiêu biểu cho diện mạo của văn hóa, văn học trong một thời kì lịch
sử nhất định. Còn hiện tượng văn hóa văn học ở vị trí ngoại biên/ ngoại vi/
biên duyên là hiện tượng ít người chú ý, phạm vi ảnh hưởng hẹp, bị các tiếng
nói khác lấn át, cả người tiếp nhận và sáng tạo đều hạn chế. Cho nên, có thể thấy,
vị trí của một hiện tượng văn hóa văn học chịu sự chi phối mạnh mẽ từ phía người
tiếp nhận, mà sự hưởng ứng hay lạnh nhạt của người tiếp nhận lại liên quan đến
rất nhiều phương diện, trong đó, không chỉ có điều kiện lịch sử xã hội mà còn
do chính bản chất của mỗi hiện tượng văn hóa văn học đó. Tất nhiên, trong lịch
sử, sự ủng hộ, tác động của chính trị, chính sách nhà nước đến vị trí của mỗi
hiện tượng văn hóa văn học cũng không hề nhỏ, thậm chí có lúc những lực lượng
này giữ vai trò quyết định đến vị trí của một hiện tượng văn hóa văn học. Trong
suốt chiều dài lịch sử, luôn xảy ra sự thay đổi vị trí trung tâm – ngoại biên của
các hiện tượng văn hóa văn học, có hiện tượng đi từ trung tâm ra ngoại biên, và
ngược lại, có hiện tượng đi từ ngoại biên vào trung tâm, và cũng có hiện tượng
cố gắng lấy lại vị trí trung tâm của mình…Chính sự hoán đổi vị trí “trung tâm –
ngoại biên” đã tạo ra sự biến động trong kết cấu chỉnh thể của văn hóa văn học
trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Ở Trung Quốc từ những năm 90 trở
lại đây, có thể nói diễn ra hàng loạt sự hoán ngôi trên rất nhiều lĩnh vực,
riêng trong lĩnh vực chính trị xã hội, người Tầu đã phải cảnh báo về nguy cơ hiện
nay các giá trị trung tâm của một thời đang dần bị biên duyên hóa[1]. Sự ngoại biên hóa của thơ ca là sự thay đổi về vị trí của
một thể loại văn học trong tổng thể bối cảnh văn hóa, văn học, chịu sự chi phối
của rất nhiều yếu tố, trong đó có sự chi phối bởi kinh tế xã hội, chính trị, và
đặc biệt là sự tiếp nhận của người đọc.
Trung Quốc vốn là đất nước của thơ ca, thời kì trung đại,
quốc gia này đã từng có một giai đoạn thơ ca (thơ Đường) phát triển rực rỡ, mà
sức ảnh hưởng cũng như sự nổi tiếng của nó mang tầm quốc tế. Vì thế, trong thời
kì đương đại, mà cụ thể là từ cuối những năm 80, đầu thập niên 90, thơ ca mất dần
vị trí trung tâm trong chỉnh thể văn học và văn hóa thực sự đã gây chấn động lớn,
làm bùng nổ những cuộc tranh luận, những bài nghiên cứu kéo dài cho đến tận
ngày nay. Bài viết này tập trung trình bày hiện tượng thơ ca đương đại Trung quốc
bị ngoại biên hóa, lí giải nguyên nhân nhiều mặt dẫn đến hiện tượng đó, mà chủ
yếu là từ góc độ tiếp nhận văn học. Thông qua hiện trạng mất dần vị trí trung
tâm của thơ ca đương đại Trung Quốc có thể thấy được số phận của thơ ca nói
riêng và văn học nói chung trong chỉnh thể bối cảnh văn hóa, cũng như các nhân
tố ảnh hưởng đến vị trí của mỗi loại hình nghệ thuật.
2. Tình
cảnh ảm đạm của thơ ca đương đại Trung Quốc
Không cần nói về thời
cổ trung đại, chỉ trong thế kỉ 20, giai đoạn trước, ở Trung Quốc tồn tại những
động thái để thơ ca có thể bước vào “trung tâm” văn hóa văn học. Những người khởi
xướng và thúc đẩy thơ mới thời kì Ngũ Tứ đã dự đoán vị trí quan trọng của thơ mới
trong cách mạng xã hội, cách mạng văn hóa, hơn nữa, từ cuối thế kỉ 20, nhà thơ,
nhà lí luận, nhà chính trị… đều tích cực tìm đường để thơ ca tham dự vào các
phong trào văn hóa xã hội, chẳng hạn như khi phê phán khuynh hướng thơ ca duy
mĩ, phê phán sự thoát li hiện thực của nhà thơ, đề xướng bình dân hóa, đại chúng
hóa thơ ca, tìm kiếm hình thức dân tộc cho thơ, thúc đẩy thể thức “thơ trữ tình
chính trị”, phong trào dân ca mới, trình diễn thơ, thơ hè phố... Những hoạt động
đó khiến thơ được đông đảo mọi người ủng hộ, hưởng ứng, trở thành một thứ tiếng
nói có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn xã hội. Đến đầu những năm 80 với sự ra đời
của phong trào “thơ mông lung”, tuy về hình thái diễn ngôn đã thể hiện phần nào
sự xa rời diễn ngôn trung tâm, nhưng từ một góc độ khác, có thể thấy lúc đó bản
thân thơ ca là yếu tố cấu thành quan trọng của phong trào xã hội, nó vì thế
không hề bị biên duyên hóa.
Đến những năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90, tình
hình có nhiều biến đổi. Đây có thể coi là một giai đoạn đặc biệt, giai đoạn xã
hội Trung Quốc chuyển mình một cách toàn diện, từ kinh tế bao cấp sang kinh tế
trị trường, văn hóa tinh anh nhường vị trí chủ đạo cho văn hóa đại chúng,
phương tiện truyền thông đại chúng bùng nổ, kinh tế phát triển mạnh mẽ…Nhà cầm
quyền cũng chủ trương để văn học tự do phát triển, hướng trọng tâm vào phát triển
kinh tế (Đặng Tiểu Bình trong đại hội nhà văn năm 1979 đã từng phát biểu như vậy).
Văn học bị đẩy ra bên lề không gian văn hóa, trong đó, so với các thể loại
khác, thì quá trình “biên duyên hóa” của thơ diễn ra mạnh mẽ nhất. Nói về sự
ngoại biên hóa của thơ ca chính là nói về việc thơ ca bị đẩy ra bên lề không
gian văn hóa xã hội, hệ thống thể loại văn học và trong các trào lưu sáng tác.
Trong không gian văn hóa xã hội, thơ ca mất dần vị trí
trung tâm. Nếu như trước kia, thơ ca là tiếng nói chung, có sức hiệu triệu quần
chúng, nhà nhà làm thơ, người người đọc thơ, thì trong thời kì này, thơ ca bị
xã hội truyền thông, bị người đọc lạnh nhạt. Độc giả của thơ ca giảm sút nghiêm
trọng, đẩy thơ ca và sự truyền bá thơ vào không gian hẹp dành cho số ít người.
Trong thời kì này, ở Trung Quốc, có một câu cửa miệng là “người làm thơ nhiều
hơn người đọc thơ”, vì thế, có lúc, thơ ca bị coi là sản phẩm được tạo ra cho
nhà thơ. Thơ ca không chỉ bị công chúng lãng quên mà còn bị cả giới văn học xao
nhãng, sức ảnh hưởng của nó suy giảm rõ rệt, nó không còn gây được sự chú ý,
thu hút với độc giả. Theo điều tra gần 1vạn sinh viên của 18 trường đại học mấy
năm về trước, số người thường xuyên đọc thơ chỉ chiếm có 4.6%, thỉnh thoảng mới
đọc thơ chiếm 31.7%, không có cảm hứng với thơ chiếm trên 50%, và trong số những
người thường xuyên đọc thơ và thỉnh thoảng đọc thơ thì chưa đến 40% có hứng thú
với thơ ca đương đại[2].
Sự ngoại biên hóa, xa rời vị trí trung tâm còn thể hiện
trong quan hệ thể loại. Không cần so sánh với văn hóa thời thượng, ngay trong
phạm vi “văn học nghiêm túc”, thì địa vị của thơ ca cũng không như ngày xưa. Từng
trong rất nhiều thời kì, thơ ca giữ vai rò chủ đạo, nhưng đến cuối thế kỉ 20
khi đánh giá thành tựu văn học, người ta thường chủ yếu chỉ dựa trên tiểu thuyết.
Thơ ca trở thành thể loại “có cũng được mà không có cũng không sao”. Ở bậc đại
học, ngay cả các giáo sư chuyên sâu về văn học hiện đương đại cũng tỏ ra không
hứng thú và không nắm được nhiều về thơ ca những năm 90. Mặc dù thơ ca Trung Quốc
vẫn phát triển liên tục với những cố gắng đổi mới, cách tân, từ sau thời kì
Cách mạng văn hóa, trường phái Thơ Mông Lung xuất hiện và phát triển rầm rộ như
một sự cách tân đổi mới, đến thập niên 90 xuất hiện thơ mới (thơ trẻ), hay còn
gọi là “nhà thơ của thế hệ thứ 3”. Thế nhưng, một sự thật không thể phủ nhận là
nếu như tác phẩm văn học thuộc các thể loại khác của Trung Quốc có thể vượt ra
ngoài biên giới, thì ngược lại, tác phẩm thơ ca đương đại hầu như vắng bóng ở hải
ngoại, lấy ngay ở Việt Nam, rất dễ tìm thấy tiểu thuyết, truyện ngắn Trung Quốc
đương đại, nhưng khó mà tìm thấy một tập thơ đương đại Trung Quốc được dịch ra
tiếng Việt.
Thơ ca bị đẩy ra bên lề không gian văn hóa, văn học cho
nên vị trí của nhà thơ cũng giảm sút. Trong bối cảnh kinh tế thị trường khốc liệt,
và văn hóa đại chúng lên ngôi, nhà thơ đóng vai trò văn hóa gì? Với tư cách là
nhà thơ, trước hết phải là một cá nhân, sau đó mới là thi nhân. Thi nhân không
phải là cao quý hơn người thường bao nhiêu, nhưng thi nhân lại phải gánh vác những
thứ mà người thường chưa bao giờ phải gánh vác, đó là điều mà chúng ta thường
nói: thi nhân là người nói tiếng nói của thời đại, là người người dám nói thật.
Thế nhưng, trong thời đại này, liệu thi nhân có thể kiên trì vị trí đó không?
Thực tế cho thấy, trước vấn đề mưu sinh, rất nhiều thi nhân đã từ bỏ vai trò của
người đại diện, người nói tiếng nói của thời đại, lí tưởng chủ nghĩa đã và đang
mất dần, chủ nghĩa lợi ích đã và đang phổ biến khắp nơi. Leslie Fiedler - nhà
văn, nhà phê bình người Mĩ gốc Do thái, một trong những nhân vật đi đầu của phê
bình văn học hậu hiện đại từng viết: “Nói thật lòng, tiền bạc và nghệ thuật
không thể tách rời nhau, vì từ khi tôi toàn tâm muốn làm một nhà văn, thì tôi
đã ý thức được, quá trình này là quá trình gắn bó chặt chẽ không thể tách rời với
kiếm tiền, chí ít là trong xã hội của chúng tôi là như vậy”[3]. Ở Trung Quốc, cụm từ “nhà thơ chuyên nghiệp” nhanh
chóng biến mất khỏi từ điển, vì trong những năm 90, chỉ dựa vào thơ thì không
thể sống được, dẫn đến hiện tượng nhà thơ kiêm chức, hoặc viên chức kiêm nhà
thơ.
3. Nguyên
nhân dẫn đến hiện tượng thơ ca đương đại Trung Quốc bị ngoại biên hóa
3.1.
Văn hóa đại chúng phát triển mạnh mẽ
Việc thơ ca bị đẩy
ra bên lề có nguyên nhân rất lớn là sự bùng nổ của văn hóa đại chúng. Thời điểm
phát triển mạnh mẽ của văn hóa đại chúng ở Trung Quốc đã được giới nghiên cứu
nước này nghiên cứu rộng rãi và thừa nhận: “Trong bối cảnh chuyển đổi của thể
chế kinh tế, xã hội, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông đại
chúng, và bối cảnh toàn cầu hóa, Trung Quốc bước vào thời kì văn hóa đại chúng,
thứ văn hóa “ăn nhanh”, từ âm nhạc thời thượng, báo chi lá cải, MTV, thi đấu thể
thao mang tính kinh doanh, các loại hình quảng cáo, karaoke, disco, đến biểu diễn
thời trang, văn học thông tục, văn học cấp 3, các loại tiểu phẩm hài… cơ hồ khiến
công chúng hoa cả mắt, từ những năm 80 đến những năm 90 nhanh chóng từ manh
nha, phát triển, và dường như đã lũng loạn thị trường văn hóa trung quốc đương
đại, chiếm cứ phần lớn không gian sinh hoạt văn hóa của đại chúng.”[4]
Cuối những năm 80, sau khi Trung Quốc đã thực hiện chính
sách 10 năm cải cách, kinh tế phát triển mạnh, văn hóa phương Tây không ngừng
hóa giải hệ thống giá trị kiên cố của văn hóa truyền thống, hạt nhân của văn
hóa tinh anh và tôn nghiêm của tri thức. Vị trí trung tâm một thời của văn hóa
tinh anh bị phá hủy triệt để, giá trị căn bản bị giải thể. Văn hóa đại chúng với
đặc điểm đơn nhất, sao chép, thông tục hóa, hướng đến chức năng vui chơi giải
trí, cùng với sự hỗ trợ của truyền thông, phương tiện nghe nhìn đã tấn công mạnh
mẽ vào văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Đọc văn là tiếp xúc với những con
chữ, hình tượng văn học chỉ có thể hiện lên trong trí tưởng tượng của người đọc.
Thơ ca với bản chất hàm súc cao độ, yêu cầu này đặt ra lại càng cao. Trong xã hội
mà áp lực của đời sống vật chất mạnh mẽ hơn bao giờ hết, trong khi không khí
tiêu dùng bao trùm lên xã hội, khi mà văn hóa thị giác lên ngôi thì loại hình
nghệ thuật yêu cầu phải có một lối tiếp nhận thầm lặng và trí tưởng tượng bay bổng
đã tự nhiên trở nên lép vế. Văn hóa đại chúng với sự hỗ trợ của phương tiện
truyền thông hiện đại mang tính trực quan đã có sức thu hút mạnh mẽ công chúng,
nó vừa tạo nên không khí thời đại, vừa thích ứng với thời đại. Văn hóa đại
chúng xuất hiện khiến thơ trở nên cô lập, việc đọc thơ bị các loại hình diễn xướng,
truyền hình thay thế, hình tượng nhà thơ bị diễn viên, ca sĩ, thậm chí bị nhà
báo lá cải nhấn chìm.
Không chỉ xảy ra sự hoán vị giữa văn hóa tinh anh và văn
hóa đại chúng, ngay trong nội bộ kết cấu văn hóa tinh anh cũng xảy ra sự biến động
vị trí trung tâm. Trong thời kì này, kết cấu tri thức tinh anh bị thay đổi. Cuối
những năm 80 đầu thập niên 90, trong xã hội Trung Quốc xảy ra rất nhiều biến động
lớn, trong đó đáng chú ý là sự biến đổi trong quan hệ quyền lực, kết cấu của
hai hệ thống tri thức: tri thức nhân văn và tri thức kĩ thuật, và hai quần thể
trí thức là thành phần trí thức nhân văn và thành phần trí thức kĩ thuật. Trong
đó tri thức nhân văn và thành phần trí thức nhân văn từ vị trí trung tâm trước
kia bị đẩy ra bên lề, và tri thức kĩ thuật và thành phần tri thức kĩ thuật từ vị
trí bên lề chuyển sang chiếm vị trí trung tâm
Trong thời kì trước, thơ ca chiếm vị trí trung tâm một phần
do nó là phương tiện giao lưu hữu hiệu, chưa có loại hình nào lên ngôi thay thế,
ngoài ra, nó còn thông qua con đường chính trị, phục vụ chính trị, dựa vào
chính sách nhà nước để tiến vào các hoạt động chính của xã hội. Nhưng khi nhà
quản lí tập trung vào phát triển kinh tế, để thơ tự do phát triển, lại cộng
thêm sự tấn công của văn hóa đại chúng với đầy ưu thế thu hút công chúng, thì
việc thơ ca bị đẩy ra ngoại biên là điều dễ hiểu, buộc phải thừa nhận, dù những
người yêu thơ có đau đớn như thế nào.
3.2.
Chất lượng thơ ca thấp và vấn đề thị thiếu thẩm mĩ của
người đọc
Khiến thơ ca mất đi vị trí trung tâm bên cạnh nguyên nhân
chính là sự trỗi dậy của văn hóa đại chúng, rơi vào “tự do cạnh tranh” không có
sự hỗ trợ của nhà cầm quyền, vẫn không thể không nhắc đến nguyên nhân chất lượng
thơ ca giảm sút hoặc nói cách khác là sự không phù hợp giữa thơ ca đương đại với
thị hiếu của người đọc. Đây có thể coi là một cái vòng luẩn quẩn đầy bi kịch của
thơ trong thời kì hiện nay.
Bi kịch thứ nhất là: khi văn hóa đại chúng lên ngôi, cướp
mất công chúng của thơ, đẩy thơ ra bên lề, muốn giành lại công chúng, muốn
giành lại vị trí trung tâm, thơ buộc phải chạy theo, học tập văn hóa đại chúng
nhằm thỏa mãn nhu cầu công chúng, hay nói bằng ngôn ngữ của thời đại kinh tế thị
trường là phải “thỏa mãn nhu cầu thị trường”, cho nên, khuynh hướng thơ dung tục,
đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của công chúng đã xuất hiện. Đây có thể coi
là một sự thỏa hiệp, một sự hợp mưu với văn hóa đại chúng hơn là sự chống lại
nó. Trước sự tác động của văn hóa đại chúng, thơ cũng phản ứng, cho dù sự phản ứng
này giống như một sự hợp mưu. Nếu như thơ ca của những năm 80 sinh ra trong chiều
sâu dân gian và tâm linh con người, phát triển cùng với ý thức đấu tranh và sự
thống khổ về tư tưởng, thì những năm 90 thơ ca ngay từ ban đầu đã phải liên kết
với thị trường, nhấn mạnh cách viết “ngôn ngữ đời thường”, “ý thức cá nhân”,
“chức năng tự sự” đều là muốn hướng đến đại chúng, muốn đại chúng quan tâm đến
thơ ca và nhà thơ.
Một điều rất dễ nhận
ra là trong thời đại mà văn hóa đại chúng trỗi dậy, không khí tiêu dùng bao
trùm xã hội, thì vấn đề “sự mê hoặc của phụ nữ”[5]
lên ngôi, đi đâu chúng ta cũng gặp các tấm biển, tờ rơi quảng cáo với hình mĩ nữ,
trên tivi, phim ảnh, internet, báo chí… hình ảnh mĩ nữ sexy xuất hiện nhan nhản,
thậm chí hiện nay, ngay cả các game cũng mang màu sắc sexy. Hình ảnh người đẹp
và sex chưa bao giờ bùng nổ công khai và thu hút như hiện nay. Chính không khí
đó đã tác động đến các nhà thơ. Muốn thu hút người đọc, thơ ca cũng hướng vào
chủ đề đó. Ở Trung Quốc, Thẩm Hạo Ba, Lí Hồng Kì, Y Lệ Xuyên… thành lập thơ ca về
“phần dưới cơ thể”…đầy dung tục, sa đọa, dâm đãng, phóng túng, không hề có chút
giá trị nghệ thuật nào. Lý Hồng Kì mở đầu bài Di truyền viết: “Mỗi đêm, tôi
đều muốn/ ôm bạn gái ngủ/ bạn gái tôi vô cùng giống cha cô/ ôm cô, giống như
ôm/ ông bố vợ già nua của tôi”. Có loại thơ nào dung tục và vô vị hơn? Y Lệ
Xuyên viết Vì sao không thể dễ chịu hơn:
“Ối, lên một chút, xuống một chút nữa,
sang trái một chút, sang phải một chút nữa/ đây không phải làm tình mà là khâu
vá/ ối, nhanh lên chút nữa, chậm hơn chút nữa, lỏng một chút, căng một chút nữa/
đây không phải là làm tình mà là thanh lí phim ảnh đồ trụy hoặc buộc dây giày”[6]. Chính vì chạy theo đáp ứng nhu cầu thị
trường theo kiểu như thế đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của thơ. Bắt chước
những thứ vốn không hợp với bản chất của thơ đã không những không giành lại được
công chúng, mà ngược lại, khiến thơ rơi vào bế tắc.
Bi kịch thứ 2 hay
cái vòng luẩn quẩn của thơ ca đương đại chính là nếu không chạy theo văn hóa đại
chúng, dung tục hóa thơ, vẫn giữ cái bản chất Thơ ca là cao quý, tự do, là hồi ức
đặc thù vui buồn, là hình thức văn học lãng mạn, thì thơ lại trở nên lạc lõng,
vì thời đại này lại là thời đại đầy dung tục. Đây không phải là thời đại của trữ
tình mà là thời đại của tự sự. Thời đại này chú trọng bàn về thực tế, thực lợi,
khác xa với phương thức biểu đạt tình cảm vốn là bản chất của thơ.
Bi kịch thứ 3 là: một
số nhà thơ không chạy theo thị trường, tìm kiếm cách tân, nhưng lại không hợp với
kinh nghiệm thẩm mĩ của người tiếp nhận. Ở Trung Quốc, giáo dục thơ ca cho người
đọc bắt đầu bằng văn học cổ, tức bằng một nền thơ ca đầy ưu mĩ, trữ tình, du
dương, tìm sự hợp nhất giữa ta và vật. Thế nhưng, thơ những năm 90 lại phủ định
vai trò quan trọng của yếu tố trữ tình trong thơ ca, và nhấn mạnh trở về trạng
thái nguyên thủy của ngôn ngữ. Yếu tố lãng mạn trong thơ mất đi, thay vào đó là
thơ ca lấy tiêu dùng làm chiến tuyến, tự sự làm kí thác, khẩu ngữ làm hình thức
biểu đạt chủ yếu. Ví dụ: bài Quán cafe
của Âu Dương Giang Hà :
Một ly cafe từ bờ bên kia đại đương trôi đến, sau đó
Là một bàn tay. Con người nắm được cái gì, thì cần tin
vào cái đó.
Ngồi ở quán cafe trôi từ phương trời xa lại,
Dưới cái nắp đậy
lên một kiến trúc mờ ám,
Đập vào mắt, giống như trong lễ phục buổi tối màu đen,
Lộ ra một mảnh cổ áo trắng như tuyết.
Điều này làm cho những độc giả quen với thơ ca trước kia
cảm thấy rất khó đọc.
Có thể nói, biểu hiện rõ nhất của
việc thơ ca bị đẩy ra bên lề chính là việc độc giả chủ động từ bỏ theo đuổi đối
với thơ ca. Xã hội chuyển hướng mạnh, người dân trước kia quan tâm nhiều đến
chính trị, tinh thần, thì hiện nay lại quan tâm nhiều đến kinh tế; xã hội bị thế
tục hóa, nhu cầu hưởng thụ vật chất của con người được giải phóng, mọi người đều
có thể trực tiếp bày tỏ nhu cầu hưởng thụ vật chất của mình mà không hề cảm thấy
e ngại hay xung đột với đạo đức luân lí… Có thể nói, bối cảnh văn hóa xã hội
ngày nay không có chỗ cho thơ ca.
Kết luận
Thơ ca nói
riêng và văn học nói chung bị đẩy ra bên lề không gian văn hóa đương đại là hiện
tượng toàn thế giới, ở mỗi nước, quá trình đó diễn ra chỉ khác nhau về thời điểm
mà thôi. Nhưng thơ, với tư cách là một thể loại văn học sớm nhất của nhân loại
và có sức sống bền bỉ qua nhiều thời đại, cũng không dễ gì bị mất đi, dù vị trí
của nó có thể bị thay đổi. Để có thể tiếp tục tồn tại, phát triển, chứ chưa nói
gì đến việc đoạt lại vị trí trung tâm, buộc thơ phải có những cách tân, đổi mới,
nhưng cho dù muốn cách tân, đổi mới thế nào, thì trong bối cảnh không còn được
lực lượng chính trị hậu thuẫn, phải tự do cạch tranh, muốn tồn tại, có sức sống,
buộc thơ phải quan tâm đến vấn đề người tiếp nhận. Số phận của thơ trong hiện tại
và tương lai chính là nằm ở đó, và cũng là chỗ nan giải nhất của thơ ca đương đại
Trung Quốc nói riêng và thơ ca thế giới nói chung.
Bắc
Kinh 2012
Đỗ Văn Hiểu
Chú thích
[1] Trần
Tân Hán: Cảnh báo về nguy cơ ngoại biên
hóa của hệ thống giá trị hạt nhân. (bản tiếng Trung), Nxb Văn Hiến KHXH,
2011
[2] xem
Lý Cảnh Lâm: Hiện tượng biên duyên hóa của
thơ ca đương đại, (bản tiếng Trung ),Báo học viên Vân Thành, trang 4
[3]
Leslie Fiedler: “Văn học và tiền bạc”, trong Văn học là gì?, (bản tiếng Trung )Văn hóa cao nhã và văn hóa đại
chúng. (bản tiếng Trung) Nxb Dịch Lâm, 2011, trang 15. Lục Dương dịch
[4]
Trần Lập Húc: Nhìn lại sự phát triển của
văn hóa đại chúng Trung Quốc từ thập niên 90 trở lại đây. (Bản tiếng Trung)
Báo trường Đảng thành phố Trường Xuân, 12/2004, trang 62
[5] An
Kiến Quốc: Sự mê hoặc của phụ nữ và văn
hóa đại chúng.(bản tiếng Trung) Nxb ĐH Sư phạm Hoa Đông, 2008
[6] Lý Cảnh
Lâm: Hiện tượng biên duyên hóa của thơ ca
đương đại, (bản tiếng Trung). Báo học viên Vân Thành, trang 6
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét